Giới thiệu: Đặc san Văn hóa Phật giáo “Tu là chuyển nghiệp”

ĐẶC SAN VĂN HÓA PHẬT GIÁO
TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
Tuyển tập các khảo luận và sáng tác
văn học nghệ thuật của nhiều tác giả
Phù Vân – Nguyên Đạo – Nguyên Minh
Chủ biên
Lời Trình Thưa
Kinh Ma-ha Ca-diếp độ bần mẫu[*] kể lại câu chuyện rất thú vị về một bà lão nghèo, nhờ cúng dường ngài Ca-diếp một chút nước cơm mà được sinh về cõi trời Đao-lợi. Phước cúng dường ấy còn lớn lao đến mức hiện thành hào quang sáng rực như bảy mặt trời đồng thời soi chiếu, khiến cho vị vua cõi trời ấy là Đế-thích cũng phải kinh ngạc. Và sau khi tìm hiểu biết được nhân duyên cúng dường được phước lớn lao này, đích thân Đế- thích cùng phu nhân của mình đã phát tâm hiện xuống cõi người, hóa thân thành một đôi vợ chồng già nghèo khổ để được có cơ hội cúng dường lên ngài Ca-diếp, vun bồi thêm phước báu của chính mình.
Bản kinh văn vắn tắt nêu ra hai trường hợp cúng dường khác biệt nhau. Bà lão trong kinh là một bà già nghèo khổ bệnh hoạn, phải nằm một chỗ trong hang động nhơ nhớp là nơi người trong vùng mang phẩn uế đến đổ. Bà lão không có áo quần, phải dùng một tấm phên tre nhỏ để ngăn không cho người khác nhìn thấy thân thể lõa lồ của mình. Bà đã nhịn đói nhiều ngày vì không thể đi ra ngoài để xin ăn, nhân có người tớ gái của một nhà giàu mang nước cơm thiu đi đổ, bà gọi xin được chút nước cơm ấy, đựng trong cái bát vỡ, nhưng còn chưa kịp uống thì ngài Ca-diếp đã cố ý đi đến khất thực trước cửa hang. Ngài Ca-diếp đọc một đoạn kệ ngắn nói về công đức cúng dường và khuyên bà phát tâm cúng dường. Bà lão tin nhận lời thuyết pháp của ngài Ca-diếp và phát tâm dâng cúng chỗ nước cơm thiu vừa xin được cho ngài, dù rằng đối với bà thì chút nước cơm đó là thực phẩm duy nhất bà xin được sau nhiều ngày, nên cũng có thể nói là sự sống của bà. Ngài Ca-diếp nhận sự cúng dường ấy, và để giúp bà lão sinh tâm hoan hỷ, ngài đã thọ dụng bát nước cơm thiu ngay trước mặt bà. Sau đó, bà lão qua đời và được tái sinh lên cõi trời Đao-lợi.
Trường hợp cúng dường thứ hai là của Đế-thích, vị vua cõi trời. Khi biết việc bà lão nghèo khổ nhờ cúng dường ngài Ca-diếp mà được sinh lên cõi trời với phước báu lớn lao, Đế-thích suy nghĩ: “Ngài Ca-diếp chỉ nhận sự cúng dường của người nghèo để giúp họ tạo phước. Nay ta phải nghĩ cách làm sao để được cúng dường ngài, vun bồi thêm phước nghiệp.” Nghĩ vậy rồi, Đế-thích cùng với phu nhân của mình hiện xuống cõi người, dùng những món ăn thượng hạng đặt trong cái bát nhỏ xấu xí, rồi họ biến hóa thành đôi vợ chồng già nghèo khổ đi xin ăn. Nhờ vậy, họ đã có được cơ hội cúng dường lên ngài Ca-diếp.
Cúng dường hay bố thí chính là gieo trồng thiện nghiệp. Mỗi người chúng ta khi lưu chuyển trong luân hồi đều mang theo nghiệp của mình đã tạo. Chúng ta không mang theo được bất cứ gì từ những đời sống trước, dù là tài sản hay tri thức, chỉ duy nhất mang theo nghiệp. Nghiệp lành, nghiệp dữ đi cùng chúng ta trong cuộc lưu chuyển giữa luân hồi. Nghiệp là hành trang, là vốn liếng duy nhất của chúng ta khi tái sinh vào một đời sống mới.
Với hành trang là nghiệp lành, chúng ta đi một cách nhẹ nhàng, thanh thản, như người dạo vườn hoa, bước trên thảm cỏ, giống như trường hợp của vua cõi trời là Đế-thích, sống với đủ mọi sự khoái lạc. Với hành trang là nghiệp xấu ác, chúng ta sẽ phải đi một cách nặng nề, khổ nhọc, như người mang nặng đi trên đường gập ghềnh, bước qua gai góc, giống như trường hợp của bà lão nghèo khổ trong kinh, mỗi ngày còn sống ở thế gian là một cực hình, không còn ai có thể khổ nhọc hơn được nữa.
Nhưng bà lão đã nhờ nghiệp lành cúng dường mà thoát khổ, được sinh lên cõi trời. Còn Đế-thích tuy đã có nhiều nghiệp lành, cũng tự biết vốn liếng ấy là hữu hạn, rồi có ngày cũng sẽ hết, nên vẫn tìm cách vun bồi thêm, giống như nhà giàu có vẫn siêng năng làm việc để duy trì sự giàu có của mình.
Và như đã nói, nghiệp cũng là vốn liếng duy nhất chúng ta mang theo để xây dựng đời sống mới. Giống như giữa thế gian này, bất cứ ai khởi nghiệp cũng đều cần vốn liếng, và thành công hay thất bại cũng một phần được quyết định từ vốn liếng. Từ một người buôn bán nhỏ, mua chợ sáng bán chợ chiều, cho đến những ông chủ các đại công ty khuynh loát toàn cầu, chưa thấy ai mà không ngày ngày nỗ lực tích lũy thêm vốn liếng. Cũng vậy, người khôn ngoan thì không một giây phút nào không nỗ lực cố gắng tích lũy thêm nghiệp lành, cho dù đã tích lũy được nhiều đến như vua trời Đế-thích. Bà lão nghèo khổ nhờ vốn liếng là nghiệp lành mà khi vừa tái sinh nơi cõi trời đã trở thành một vị thiên nữ đại oai đức. Vua trời Đế-thích cũng nhờ vốn liếng là nghiệp lành mà kéo dài thêm đời sống khoái lạc ở cõi trời.
Trong cả hai trường hợp kể trên, sự cúng dường bố thí đều mang lại lợi lạc lớn lao. Và cả hai trường hợp đều là những tấm gương quý giá để chúng ta soi vào và nỗ lực cúng dường, bố thí, gieo tạo nhân lành.
Nhưng sự cúng dường bố thí không chỉ giới hạn trong phạm vi vật chất. Trong nhiều Kinh điển, đức Phật còn dạy rằng việc bố thí Pháp có giá trị lớn lao hơn cả cúng dường vật chất. Bà lão trong câu chuyện trên cũng nhờ nhận được Pháp thí từ ngài Ca-diếp nên mới khởi tâm cúng dường. Đế-thích biết phát tâm cúng dường cũng là nhờ trước đó đã từng nghe Pháp. Cho nên, bố thí Chánh Pháp được xem là hình thức bố thí mang lại lợi lạc nhiều nhất cho chúng sinh. Và trong điều kiện xã hội ngày nay thì việc gìn giữ và truyền bá văn hóa Phật giáo cũng chính là Pháp thí.
Vì sao chúng tôi có thể nói như vậy? Bởi vì chính thông qua sự truyền bá văn hóa Phật giáo mà ý nghĩa những lời Phật dạy có thể đến được với nhiều người. Trong thực tế, đã từng có người đọc sách của chúng tôi rồi phát tâm xuất gia, cho nên chúng tôi tin rằng những trường hợp nhờ văn hóa Phật giáo mà phát khởi thiện tâm, củng cố tín tâm cũng không phải là ít. Do vậy mà suốt những năm hoằng pháp ở hải ngoại, chúng tôi luôn chú trọng đến sự truyền bá văn hóa Phật giáo. Báo Viên Giác được chúng tôi khai sinh số đầu tiên từ năm 1979, đến năm nay (2023) đã trải qua 44 năm dài vẫn được duy trì, có thể nói là tờ báo Phật giáo có tuổi thọ lâu dài nhất hiện nay. Vì tờ báo sống nhờ vào sự ủng hộ của người đọc, nên chính sự tồn tại dài lâu của nó đã có thể nói lên hiệu quả truyền bá văn hóa Phật giáo trong lòng người.
Kể từ năm 2019, nhân dịp 40 năm khai sinh báo Viên Giác và cũng là kỷ niệm 40 năm thành lập chùa Viên Giác tại Đức quốc, Đặc San Văn Hóa Phật Giáo số đầu tiên đã được ra đời trong nỗ lực nâng cao hơn nữa những hoạt động giữ gìn và truyền bá văn hóa Phật giáo. Nếu như báo Viên Giác chủ yếu cung cấp cho người đọc những tin tức cập nhật về các hoạt động văn hóa Phật giáo đó đây cùng những kiến thức căn bản cũng như sự hướng dẫn tu tập hằng ngày, thì Đặc San Văn Hóa Phật Giáo với chu kỳ xuất bản thường niên và quy tụ nhiều tác giả, dịch giả Phật giáo ở khắp mọi nơi trên thế giới, có thể mang đến cho người đọc những bài viết chuyên sâu hơn cùng với những công trình khảo cứu, nghiên cứu kinh luận có giá trị dẫn dắt lâu dài cho bước đường tu tập. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không thiếu những áng thơ văn nhẹ nhàng thanh thoát hay những truyện ngắn sâu sắc hàm chứa nhiều đạo vị…
Chủ đề của Đặc San Văn Hóa Phật Giáo kỳ này là “Tu là chuyển nghiệp”, một chủ đề vô cùng thiết thực đối với mọi người Phật tử, xuất gia cũng như tại gia. Đặc san này hân hạnh được sự góp mặt của quý Hòa thượng, Thượng tọa, Tôn Đức Tăng Ni và các bậc thức giả khắp nơi, trong cũng như ngoài nước. Ngoài ra, bên cạnh những cây bút quen thuộc còn có thêm các bài nghiên cứu, các bản dịch có giá trị sâu sắc từ ngoại văn. Với sự phong phú, đa dạng đó, chúng tôi hy vọng Đặc San này sẽ mang đến nhiều lợi ích cho người đọc và phần nào đáp ứng được nhu cầu thưởng thức văn hóa Phật giáo của mọi người.
Chúng tôi xin có vài lời trình thưa đơn giản như trên để niệm ân tất cả chư Tôn Đức và các bậc thức giả, kể cả những độc giả xa gần. Vì chính Quý Ngài và Quý Vị là nền tảng căn bản để chúng tôi còn tiếp tục duy trì cũng như phát triển nền văn hóa Phật Giáo ngày nay, kể cả ở trong lẫn ngoài nước.
Hòa Thượng Thích Như Điển
Chủ nhiệm sáng lập báo Viên Giác
Cố vấn sáng lập Đặc San Văn Hóa Phật Giáo
[*] Tức Phật thuyết Ma-ha Ca-diếp độ bần mẫu kinh (佛說摩訶迦葉度貧母經), Đại Chánh tân tu Đại Tạng kinh, Tập 14, kinh văn số 497, do Ngài Tam Tạng Cầu-na-bạt-đà-la (Guṇabhadra – 求那跋陀羅譯) người nước Vu-điền (于闐) dịch ra chữ Hán (từ Phạn ngữ) vào đời Lưu Tống(420-479).