HT Thích Bảo Lạc: Phàm trong phi phàm

Dưới con mắt thường phàm của thế nhân khó mà lượng định đúng được những hành tung phi phàm của các bậc đạt ngộ, tu chứng. Trừ các bậc Thánh nhân, chư Bồ Tát với công hạnh độ sanh, các Ngài trang trải tâm lượng từ bi bằng những phương tiện thiện xảo tuyệt vời cốt đưa con người và mọi chúng sanh tới với ánh đạo nhiệm mầu thanh tịnh và giải thoát. Cũng có những vị thô tướng thường bằng những hành hoạt lạ kỳ, chướng mắt, thô phù, cộc lốc, bất cần phạm trai phá giới v.v… mà khi mới nhìn ta không khỏi bỉu môi chê trách; ấy là chưa kể có khi ta còn xúc phạm tới các vi bằng ngôn từ phù hư, những ý nghĩ điên rồ với tâm trần thói nhiễm. Câu chuyện, thiền sư Diệu Đạo sau đây giúp chúng ta quán chiếu sâu hơn, nhìn kỹ hơn, tu tập tinh cần hơn, mới mong dứt trừ những cố chấp sai lầm căn để sâu dày trong ta từ vô lượng kiếp.
1. Trần tục hơn cái trần tục:
– Sư trú trì chùa Báo Ân tại huyện Vạn Ninh (trước kia là huyện Vạn Giả) Tỉnh Khánh Hòa – Việt Nam, vào thập niên1960. Chùa rất đơn chiếc không có tăng chúng, cũng không người giúp đỡ việc cơm nước. Và hình như điều này cũng không mấy cần thiết đối với sư. Ngôi chùa quê thô sơ giản dị và cho đến đỗi nghèo không có lấy một cây nhang để đốt. Phải chăng do chùa quá chật vật không mua nổi bó nhang cúng Phật hay người Phật tử quê quá nghèo không cúng được bó nhang? Chắc đây do hành tung tu hành lạ lùng của sư làm cho người dân làng ngờ vực không hợp tác, không giúp đỡ công quả cũng nên. Tiếng là trụ trì ngôi chùa nhưng quần áo sư rất luộm thuộm dơ dáy, vì có thói quen hay ăn trầu nhểu đỏ từ trên xuống làm cho chiếc áo không mấy khi sạch. Ngoài ra sư còn uống rượu say sưa như cơm bữa khi đêm đến, và lần nào cũng vậy, tới lúc say bí tỉ sư coi thiên hạ như chỗ không người, như bọn con nít nên sư rất tự tại cởi tuốt quần áo, nằm sãi cẳng, giang tay nơi bờ đường xó ruộng. Có hôm, bác Tư gần chùa phải cõng sư về chùa. Dù vậy, không một thời công phu khuya nào sư bỏ cả. Hôm nào bận đi xa, sư đều gióng chuông cảnh thức 108 lần để đánh thức dân làng ra đồng làm việc như thói quen mỗi ngày. Cũng có khi sư tồng ngồng đi giữa đường hay trong sân chùa như thói quen thường thấy.
2. Con người trị bệnh:
Sư có tài trị các bệnh điên cuồng, hay ma quỉ dựa nhập, yếm phù v.v… rất hiệu quả, nên có nhiều người biết tiếng, mách bảo nhau tìm đến nhờ sư trị liệu. Phương pháp trị bệnh rất đơn giản: một chén nước trong, một cành hoa, cây nhang và đọc câu thần chú: án ma ni bát di hồng, là bịnh nhân hầu như qua vài ba lần đều được lành bệnh hẳn. Những bệnh nhân lành bịnh đem lễ phẩm đến hậu tạ, sư đều từ chối không nhận tiền thù lao. Sư quan niệm: làm phước bệnh mới lành. Nhận tiền ra chỗ làm công cho người, và không khéo lại mượn “oai thần” để mưu sinh, đâu phải chánh mạng của người tu hành. Biết được điều này, thân chủ âm thầm bỏ tiền vào thùng phước sương (công đức) hoặc mua bông trái dâng cúng Phật. Có nhiều lần HT Linh Sơn bảo:
– Thầy với tôi coi như tình pháp lữ, bên chùa Thầy cần gạo, tương cứ tự nhiên qua đây lấy về dùng, đừng ngại.
3. Xem mặt biết người:
Như biết trước ngày viên tịch, khoảng năm 1983, sư đến chùa Linh Sơn (Vạn Giả) thăm Hòa Thượng Tịch Tràng viện chủ và Tăng chúng với sự niềm nỡ đầy an lạc như chưa từng có trước đây.
Sư xá chào Hòa Thượng Linh Sơn xong, rồi nghiêm chỉnh chấp tay thưa:
– Bạch Hòa Thượng: Xin ngài cho phép tôi xem mặt đoán coi tương lai chúng tăng ra sao, có điều gì bất tiện?
– Thầy xem tướng quý Thầy, quý chú thì được, nhưng lỡ đoán trúng con đường tu không hanh thông của họ, làm đương sự buồn, thối thất đạo tâm kể ra cũng tội nghiệp họ.
– Xin Thầy yên tâm, vì tướng tự tâm sanh mà!
– Chùa có 26 người tất cả gồm 8 Sa Di và 18 Tỳ Kheo, nếu xem tướng từng người e mất nhiều thì giờ và nhọc công Thầy lắm!
– Không có sao đâu!
Nói xong sư bắc ghế mời Hòa Thượng Tịch Tràng ngồi, còn mình xách ghế ngồi lui ra phía sau một khoảng cách để giữ sự tương kính phải phép.
Trước tiên, sư dặn kỹ đi ra từng người một, tự nhiên, không khép nép lễ nghi, không cúi chào, không dừng lại trước hai Thầy. Chúng Sa Di được hỏi trước, mỗi lần một chú đi qua trước mặt Hòa Thượng và Thầy với dáng hơi khiếp, sư nhìn mặt từng người và nói như: giảo hoạt không thành thật, mày râm háo sắc, thông minh nhưng hay gian xảo, lợi khẩu rắc rối… không thể nào tu được lâu bền trọn vẹn. Hết lượt mấy chú đến các Thầy Tỳ Kheo, sư cũng nhìn và nói tương lai của từng vị. Đến lượt Thầy Thiện Tường (đã viên tịch năm 2001) đi qua, Thầy nhận xét như in sẵn tự bao giờ rằng “Thầy này con đường tu gian nan lắm đấy, không ra đời cũng ở nước ngoài và chết bỏ xác nơi xứ lạ quê người.” Và người cuối cùng là Thầy Thanh An, Sư nói như không suy nghĩ. “Lại Thầy này nữa về sau không mấy sáng sủa đâu; sống tự lập và cô quạnh, không người thay thế kế thừa. Đường tu niệm phải nói là thật chông chênh vất vả, nếu không cố gắng sẽ phải đổi mạng như chơi. Nhưng Thầy có tánh thẳng thắn thành thật, nhiều khi làm phật lòng kẻ khác, trong đó có cả huynh đệ đồng môn. Những sự thử thách nẩy lửa làm cho Thầy suýt bỏ mạng; còn thầy vẫn vô úy, kiên định chí nguyện nên vượt qua được những bẫy sập chết người! Sau 20 năm thể nghiệm lời tiên liệu của vị Thầy chùa quê mộc mạc ấy, người ta mới thấy được sự thực của dòng đời ảo hóa chân giả khôn lường.
Ngày nay thân tứ đại của Thầy (Diệu Đạo) không còn hiện hữu trên cõi đời này nữa, nhưng những lời nói thẳng của Ngài với số chúng 26 tăng sinh cổ tự Linh Sơn năm nào, như còn rõ mồn một qua cuộc thể nghiệm tự thân mỗi người bị hấp dẫn lực mãnh liệt, cuốn hút vào dòng đời xuôi ngược mà có người đã nhắm mắt xuôi tay đi vào nằm yên trong lòng đất lạnh, người cố ra sức chống chèo vất vả trong trận bão cát hỏa mù đang khập
khiểng lần dò từng bước chưa định được nơi chốn – quốc nội hay hải ngoại – để tạm dừng chân, như trường hợp của người kể câu chuyện này. Còn hầu hết những huynh đệ khác trở lại đời sống bình thường đều vật lộn trong cuộc mưu sinh không mấy tiện lợi dễ dàng như nhiều người đều biết.
4. Công viên quả mãn:
Sau lần gặp gỡ thăm viếng Hòa Thượng Viện Chủ và đại chúng chùa Linh Sơn lần đó xem như lần cuối cùng để giã từ các huynh đệ và ngôi cổ tự quen thuộc mà ngài Diệu Đạo thường lui tới viếng thăm.
Mấy hôm liền tiếng đại hồng chung chùa Báo Ân im vắng, nhịp mõ tiếng chuông công phu khuya không còn nghe văng vẳng như mọi ngày. Để ý theo dõi đã ba hôm liền ngôi chùa vẫn lạnh lùng yên lặng, những Phật tử chung quanh sanh nghi ngờ và muốn tìm ra sự thật. Bác Tư tới gõ cửa, bên trong không ai trả lời, bác phải dùng kềm búa nạy cửa vào chùa. Vừa bước vào phòng, bác có cảm giác lành lạnh cả người khi chứng kiến một người đang ngồi yên bất động trong tư thế nhập thiền định chưa buông xả. Thân ngồi ngay ngắn không nghiêng lệch xiêu ngã, tay còn bắt chéo lên nhau, bàn tay phải để lên lòng bàn tay trái, đầu hai ngón cái đâu sát lại nhau. Nhìn kỹ, quý bác Phật tử thấy Người không còn hơi thở nữa mà đã hóa từ bao giờ; tính kỹ tới nay thầy viên tịch đã ba hôm từ ngày chùa vắng tiếng chuông và kinh kệ buổi sáng. Bác Tư nhẹ nhàng khép cửa lại và chạy vào chùa Linh Sơn báo tin cho Hòa Thượng Viện Chủ. Được tin chẳng lành, Hòa Thượng cử Đại Đức Thông Đạt tức thầy Thích Thanh An đến chùa Báo Ân xem xét để lo việc lễ tang, vì số chúng tuy đông, nhưng thầy Thanh An là hàng sư huynh chúng chùa Linh Sơn – Vạn Giả lúc bấy giờ. Đến nơi mở cửa bước vào phòng, thầy Thanh An vô cùng kinh ngạc vì thế ngồi của Ngài Diệu Đạo tự nhiên như người đang nhập thiền định. Thầy chấp tay xá và khấn nguyện: xin Ngài hoan hỷ tha thứ cho con chạm vào thân xác và xem Ngài còn sống hay đã ra đi để về báo Hòa Thượng Linh Sơn đến chỉ đạo mọi việc cho được chu đáo. Thật là hết sức mầu nhiệm, một người chết đã ba hôm vẫn không có mùi hôi hám, thế ngồi cân đối thẳng ngay mà đúng ra với người thường hẳn không thể nào có được. Trong vòng hai tiếng sau Hòa Thượng Tịch Tràng đến, Ngài cho mời quý Phật tử lớn tuổi trong làng đến họp phân công và cho lập chương trình tang lễ, và Ban Tổ Chức. Các lễ nhập liệm, thọ phục, tụng niệm, cúng cơm, khiển điện, triều Tổ, giác linh đảnh lễ Tam Bảo, lễ động quan, di quan và lễ nhập bảo tháp v.v… tuần tự diễn ra với sự tham dự đông đảo chư tôn đức tăng ni bổn huyện và các chùa lân cận trong vùng. Có thể nói đám tang tuy giản dị nhưng không kém phần trang nghiêm thanh tịnh; vì Ngài viên tịch quá nhẹ nhàng, thân xác người nằm xuống không hôi hám, ương sình dù đã trải qua ba ngày trong hoàn cảnh khí hậu mùa hè oi bức của miền Trung.
5. Nhận xét và góp thêm vài suy nghĩ:
- Thiền sư Diệu Đạo hạnh tu như thế nào mà trị lành được những chứng bịnh điên cuồng, ma dựa nhập có hiệu quả như thần?
- Ngài có biết trước giờ chết không?
- Chết được an lạc là một trong năm phước lớn, liệu hầu hết chúng ta có đón nhận được không?
- Người chết đã ba ngày mà vẫn trong tư thế ngồi bất động là sao?
- Xác người chết không được ướp phòng lạnh, sao không ương sình, hôi hám?
Chắc chắn một điều là những ai gần gũi hay người nào biết được hạnh tu và sự hành hoạt phi phàm của Ngài đều cúi đầu ngưỡng mộ thán phục một bậc dị nhân liễu đạo mà hành tung khó lường trong cuộc đời chân giả khó phân hôm nay.
Việc trị lành bệnh của một tăng sĩ quê mùa ít học, lại đạt hiệu nghiệm đã là một chuyện lạ; lại chuyện trị bằng phương pháp đơn giản Mật tông là một việc hy hữu trong thời đại mà khoa học, y khoa đã tiến đến một đích điểm tuyệt vời vào cuối thế kỷ thứ hai mươi; và làm xong việc người thầy như không cần ai ca ngợi thưởng công lại là một việc làm vô cùng cao thượng biết bao!
Mọi việc dường như đều được chuẩn bị sẵn sàng như người lữ hành cụ bị hành trang trong một cuộc du lịch đi xa lâu ngày. Thật vậy, trước ngày đi không lâu, thiền sư Diệu Đạo đến thăm Hòa Thượng Linh Sơn và Tăng chúng; cũng như những đoán định tương lai từng người của Ngài lúc đó, phải chăng là một cuộc giã từ vĩnh viễn còn lưu nhiều kỷ niệm nơi mỗi người trong tình Linh Sơn cốt nhục?
Đã có mấy ai chết được an lạc không bị bệnh khổ dằn vặt thân xác, tâm hồn? Trường hợp Ngài Diệu Đạo, không đau ốm chi mà trong tư thế sẵn sàng ngồi nhập thiền định rồi dứt hơi thở đi luôn lúc nào không ai biết. Có thể nói định lực Ngài đã đạt đến chỗ dụng công miên mật mới thành tựu viên mãn đại nguyện. Vì sanh tử là việc trọng đại trong đời mà hầu hết mọi người từ vua quan cho chí dân giả ai cũng muốn trốn tránh, sợ hãi không đủ can đảm trực diện, đề cập.
- Nếu không do nhiếp tâm bất loạn làm sao ngồi tĩnh tọa thế liên hoa như vậy được nhiều giờ hay chịu đựng nổi qua nhiều ngày mà thân xác Ngài sau ba ngày tắt hơi thở vẫn giữ tư thế ngồi vững chãi như vậy, là một chứng minh rõ ràng sức kiên định đã đạt được nhờ công phu tu tập lâu ngày.
- Khoan đề cập tới thân xác con người lúc chết, ta chịu để ý quan sát những con vật nhỏ như rắn, chuột chim, chó, mèo… chết chỉ trong một vài ngày là rỉ nước, sình chướng lên và bay mùi tử khí nồng nặc không ai chịu nổi. Xác của người chết, xông lên mùi hôi lại càng khó chịu hơn. Đàng này trái ngược hẳn với người thường, xác thiền xư liễu đạo ba hôm vẫn còn mềm mại như người còn sống vậy. Nếu lý luận cho rằng, một người không ăn uống lúc chết xác không hôi, điều này cũng chưa hẳn đúng; còn như xác quyết: cái chết của một vị thiền sư phải có điềm thụy ứng lành chứ, cũng lại là một sự võ đoán không có bằng chứng cụ thể. Vì đâu phải vị thiền sư nào lúc viên tịch cũng viên thành đại nguyện cả đâu.
6. Kết luận
Do mấy nhận xét tác giả vừa nêu ra trên đây, cho thấy rằng, còn trong tâm niệm phàm phu chúng ta cũng khó mà xét đoán được người qua việc làm hay ngôn ngữ của họ chính xác, nhất là những vị tu hành với hành tung nghịch thường mà đôi lúc ta cho là phi luân lý, vô đạo đức, độc địa v.v… hay là gì gì đi nữa cũng khó mà hiểu hết được phương tiện thiện xảo của họ. Nói như thế ta có bi quan và cố chấp lắm không? Xin xác định lại cho rõ: chắc chắn nhận xét như thế không có gì lệch lạc đáng chê trách cả. Vì qua câu chuyện liễu đạo của Ngài Diệu Đạo là ví dụ tiệc tu chứng như thế nào, giúp soi sáng con người trong thời kỳ pháp nhược ma cường hôm nay.
(Câu chuyện trên đây tôi viết lại theo lời thuật của Hòa Thượng Thanh An, Viện chủ Tự Viện An Tường vùng Oakland thủ phủ San Francisco – California Hoa Kỳ vào chiều Chủ Nhật ngày 6/3/2005)