HT Thích Đức Niệm: Vu Lan báo hiếu

Mỗi năm đến Rằm tháng Bảy, mọi người con thảo cháu hiền không ai bảo ai, tự nhiên cảm thấy lòng mình lâng lâng nỗi niềm bâng khuâng tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ. Đặc biệt là những vùng khí hậu bốn mùa rõ rệt, lá thu vàng lác đác nhẹ rơi, lại càng khơi dậy lòng người cảnh sanh ly tử biệt, nỗi nhớ niềm thương của người con thảo cháu hiền nao nao da diết hơn bao giờ. Nhất là hình ảnh chư tăng cầu nguyện, khói hương quyện tỏa, khung cảnh trang nghiêm của mùa Vu Lan Báo Hiếu lại sống dậy nơi lòng:

Mỗi độ thu sang rằm tháng Bảy
Hồn con nương tựa bóng từ bi
Trầm hương nguyện tỏa kinh cầu nguyện
Cửu huyền phụ mẫu đắc thoát ly.

Vu Lan phiên âm từ tiếng Phạn là Ullambana, người Trung Hoa dịch là Giải-đảo-huyền, có nghĩa là giải cứu tội khổ treo ngược. Ý nói tội nhân đọa trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh bị nghiệp lực hành hạ khổ đau như người bị treo ngược được giải cứu.

Vu Lan nói cho đủ là Vu Lan Bồn. Bồn là dụng cụ đựng đồ như cái thau. Ngày xưa chưa có thau bằng nhôm, người ta dùng bồn bằng sành để đựng các phẩm vật. Vu-lan-bồn là cái bồn, thau để đựng phẩm vật dâng cúng dường chư Phật chư tăng trong lễ trai tăng để cầu nguyện cho cha mẹ ông bà thân thuộc quá cố được giải thoát khổ đau trong ba đường ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, hoặc cầu phước cho cha mẹ hiện tiền được tăng trưởng phước thọ.

Lễ Vu-lan-bồn được dẫn từ tích truyện ngài Mục-kiền-Liên tôn giả cứu độ mẹ là bà Thanh Đề. Chuyện này được Phật thuyết giảng trong kinh Vu-lan-bồn. Kinh dạy rằng: Tôn-giả Mục-Kiền-Liên sau khi tu hành chứng quả A-la-hán, dùng thiên-nhãn quán xem cha mẹ ở phương nào để đến thăm. Không ngờ thấy mẹ đang đọa trong loài ngạ quỷ đói khát thiếu đốt khổ sở. Mục-kiền-Liên xúc động rơi lệ:

Đôi mắt long lanh lệ ướt dầm
Khóc tìm từ mẫu cõi xa xăm
Nỗi niềm nuôi dưỡng bao năm tháng
Phụ đức sanh thành biết mấy năm
Tất da báo đến ân nghĩa nặng
Tấm lòng mong nguyện hiếu tình thâm
Vì chàng Phật dạy Vu Lan hội
Luống để cho ai những khóc thầm.

Thấy mẹ đói khát như vậy, Mục Kiền-Liên liên vận dụng thần thông bưng cơm đến dâng mẹ. Bà Thanh Đề đói khát lâu ngày, vừa thấy bát cơm của ngài Mục Kiền-Liên, lòng tham bản sản của bà trỗi dậy sợ các quỷ khác xin ăn, nên cơm vừa để vào miệng thì nghiệp lực tham sân bỏn xẻn hóa cơm thành lửa phừng cháy cả mặt miệng bà:

Đây bát cơm đầy nặng ước mong
Mẹ ơi! đây ngọc với đây lòng
Đây còn tình nặng trong tha thiết
Ân nghĩa sanh thành chưa trả xong.

Chứng kiến cảnh đau lòng không thể tả, quá xúc động, tôn giả Mục-Kiền-Liên bậc khóc thảm thiết, liền vội trở về tinh-xá Kỳ Hoàn bái kiến Phật, đem hết tự sự khổ tâm vừa rồi khẩn bạch cầu mong đức Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẹ.

Đức Phật động lòng giảng nói: “Mẹ ông khi còn sống ở đời vì quá tham lam bỏn vẹn, không tin sâu Tam-Bảo, khinh thường luật nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, chẳng biết cúng dường bố thí làm phước, xem nhẹ tăng ni, khinh khi hủy báng người tu hành, chê bai biếm nhỏ người làm việc lành thiện, hay dèm pha chế nhạo người nhiệt tâm hộ đạo phò trì Tam Bảo, tụng kinh niệm Phật, đi chùa công quả nghe thuyết pháp. Ngày ngày chỉ biết lo gom góp tiền của, cúng bái tà thần ngoại đạo cầu mong sao cho được giàu có thêm. Do vậy mà tội lỗi chất chồng như núi. Tuy ông gắng công tu hành ngày nay chứng được đạo quả A-la-hán đầy đủ sáu phép thần thông, nhưng thần lực công đức của một mình ông như chiếc bè không thể nào chở nổi núi tội to lớn kia, mà phải cần nhiều bè kết lại mới vận tải nổi. Vậy nhân ngày rằm tháng bảy là ngày chư tăng tự tứ, ngày chư Phật mười phương hoan hỷ cho hàng xuất gia trưởng tử Như Lai đã tròn đầy ba tháng an cư kiết hạ, tinh tấn chuyên tu thân tâm thanh tịnh, công đức cao dày, thêm được tuổi đạo. Ông nên nhân dịp rằm tháng bảy này đem tất cả của cải mẹ ông để lại lo sắm sửa trai nghi, rồi thân hành đi khắp nơi tìm thỉnh những bậc chân tăng giới đức về để cúng dường trai tăng, nhờ đức thanh tịnh cùng với sức chú nguyện của các vị ấy thì sẽ chuyển hóa được tâm nghiệp của mẹ ông. Làm như thế mới mong được toại nguyện báo hiếu cứu mẹ”.

Nghe Phật dạy xong, mừng quá, tôn giả Mục-kiền-Liên liền đem hết tâm thành thực hiện như lời Phật dạy, ngay đó, bà Thanh Đề được thoát kiếp ngạ quỷ, sanh về cõi trời hưởng phước với chồng. Chồng bà lúc sanh tiền thường làm việc phước thiện, giúp đỡ chư tăng, cúng dường Tam Bảo, sống đời lành thiện, nên sớm đã sanh về thiên giới.

Mẹ hiền về chốn thiên cung
Toại lòng con thảo nguyện cùng thánh tăng
Từ bi công đức vạn năng
Mấy ngàn năm vẫn chưa từng đổi thay
Chư tăng trọn chín mươi ngày
Cát tường bảo tọa giải bày tâm can
Bao nhiêu nghiệp hải chướng san
Đây ngày tự tử sạch ngàn ác duyên.

Trong Phật pháp thường gọi Rằm tháng Bảy là ngày Vu Lan Thắng Hội. Thắng Hội có nghĩa là pháp hội thù thắng. Hội là sự tập họp của chư Phật, Bồ-Tát, chư Tăng, tứ chúng đệ tử của Phật. Tập hợp như chánh pháp, thực hành như chánh pháp. Thù thắng có nghĩa là tốt đẹp nhất, phước đức to lớn nhất, năng lực nhiệm mầu vi diệu tuyệt vời nhất, không có gì trên đời sánh kịp. Vậy Vu Lan Thắng Hội là pháp hội công đức đặc biệt thù thắng có năng lực thần diệu giải cứu tội nhơn được siêu thoát. Ý nghĩa được thấy trong kinh Vu-lan-bồn và được kết tinh thành dân gian ca-dao “tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

Tại sao con phải có bổn phận hiếu kính cha mẹ? Phật nói rõ trong kinh Báo Phụ Mẫu Trọng Ân. Điều này khắp thiên hạ. đều biết: Không có cha mẹ ta thì không có thân thể hình hài của ta. Cha mẹ ta đã tạo cho ta cái thân thể này:

Có ông bà mới có ta
Ông bà là gốc, mẹ cha là cành
Thân ta như thể lá xanh
Nhờ gốc vun bón, nhờ cành chở che

Mẹ đã mang nặng đẻ đau, bên ướt mẹ nằm, bên các con chơi. Cha đã phải ngày ngày vất vả ngược xuôi để kiếm tiền nuôi con. Từ khi mang con trong thai cho đến ngày tiếng khóc chào đời, lúc nào cha mẹ cũng hồi hộp lo âu không biết con mình có được vuông tròn nguyên vẹn không ! Con vừa ra khỏi lòng mẹ, nghe tiếng con khóc đầu tiên thì mẹ mới thật mừng hết lớn, quên đi nỗi đau đớn như dao cắt xé thịt banh da. Lúc đó, cha mới mĩm cười nhìn thấy mặt con như trút được gánh nặng lo âu. Từ tiếng khóc chào đời cho đến ngày khôn lớn, cha mẹ dồn hết tâm lực lo cho con, mà quên ăn bỏ ngủ, không đủ thời giờ để tắm gội điểm trang. Tiếng khóc của con là nỗi lo âu buồn đau cha mẹ. Tiếng cười của con là niềm vui gia đình. Những khi trái gió trở mùa, những lúc mọc răng khát sữa, con nổi chướng giãy dụa dặm đạp, khóc la, mẹ vẫn một lòng dịu ngọt ru con:

Nuôi con trong lúc dỗi hờn
Dịu dàng mắt mẹ khuyên lơn ngọt ngào
***

Mẹ là cả một trời thương
Mẹ là cả một thiên đường trần gian
Tiếng ru mẹ ấm vô vàng
Nuôi con trong tiếng tơ đàn văn chương

Dài đăng đẳng suốt tháng năm, cha mẹ lo chăm sóc cho con từ ăn mặc ngủ chơi. Tất cả những gì ngon nhất, vui nhất, tốt đẹp nhất đều dành để cho con. Đến đổi vì muốn cho con được nên danh nên phận, mà có lúc cha mẹ phải hy sinh danh dự giá thể để hạ mình luồn cúi nài nỉ xin nhờ người ta:

Mẹ cho con tất cả
Hết quãng đời tuốt xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời thanh
Mẹ là gió mát tinh anh
Là cây tiên dịu là cành thùy dương
Mẹ là hoa, mẹ là hương
Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu …

Từ khi có con, mẹ cha vì lo tương lai cho con mà phải hy sinh thú vui ngon đẹp trên đời để chăm sóc con. Gặp lúc gia cảnh khó khăn, cha mẹ phải ngày đêm ngược xuôi chạy lo tìm kế sanh nhai, để cho con mình no ấm. Hoặc chẳng may gia đình lâm vào túng quẫn, thì cha phải làm lũ vất vã tay chân, mẹ phải buôn gánh bán bưng, một nắng hai sương, chân lấm tay bùn, nuôi con yên tâm ăn học cho bằng chúng bạn, không để con đói rách tủi phận:

Ôi! chiếc lưng của mẹ
Đã còn bởi thương đau
Ôi ! cuộc đời của mẹ
Trăm năm nối chuyện sầu.

Vì con mà mẹ phải lưng còm,tóc bạc da nhăn ốm gầy. Khi con lớn khôn, cha mẹ lại lo lập thành gia thất, rồi tiếp tay săn sóc nuôi bồng cháu chắt. Dù con nay đã lớn, đã có vợ chồng con cháu, gia nghiệp, danh vọng ở đời, nhưng lòng mẹ bao giờ cũng thương tưởng, cũng để tâm chăm lo nghĩ nhở con như thuở còn thơ ấu. Cho dù con không thương thích mẹ, hay chống báng không vâng lời mẹ dạy, hoặc nay có danh vị giàu sang quyền quý mà khinh chê mẹ quê mùa lỗi thời xấu xí xa lánh mẹ, thì mẹ chỉ âm thầm buồn tủi, nhưng vẫn một lòng canh cánh thương con, tâm tư không lúc nào rời con, cho đến hơi thở cuối cùng, để rồi mang tình thương trong trắng đó về bên kia thế giới:

Nuôi con trong lúc dỗi hờn
Dịu dàng mắt mẹ khuyên lơn ngọt ngào
Một đời vốn liếng mẹ trao
Mẹ cho tất cả mẹ nào giữ riêng
Mẹ hiền như một bà tiên
Mẹ theo con suốt hành trình con đi.

Cha mẹ thương con, nuôi con và hy sinh trọn đời cho con. Lắm lúc vì con mà cha mẹ quên mình. Từ khi con còn nằm trong thai mẹ, sanh ra nuôi nấng lớn khôn học hành, cho đến ngày dựng vợ gả chồng lập thành gia thất, và có sự nghiệp danh phận trong xã hội, lúc nào cũng được tình thương và bàn tay dịu hiền nâng niu chăm sóc giúp đỡ của mẹ. Ân đức sanh thành nuôi dưỡng của cha mẹ như trời cao biển rộng không bút mực nào viết cho hết, không lời nào diễn tả cho cùng:

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Công ơn cha mẹ như trời biển, bổn phận làm con phải như thế nào để đền đáp? Chúng ta đều biết không có cha mẹ thì không có thân ta. Nếu không có tình thương nuôi dưỡng của cha mẹ, thì ta không thể sống còn và khôn lớn đến ngày nay. Bao nhiêu ngọt bùi cha mẹ nhường để cho con. Bao nhiêu đắng cay cha mẹ nhận lấy, miễn sao con mình mạnh khỏe vui vẻ ăn học là cha mẹ mừng:

Sung sướng nhỉ những người còn mẹ
Còn mẹ là còn cả đất trời
Đau đớn nhỉ những người mất mẹ
Mất mẹ là mất hết em ơi!

Vậy trước nhất con phải hết lòng giúp đỡ chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ cơm áo thuốc thang và nhu cầu vật dụng đừng để thiếu thốn. Thường nên sớm hôm thăm viếng an ủi cha mẹ khi tuổi già sức yếu bịnh hoạn, đừng hờ hững quên mà tội nghiệp song thân. Điều đặc biệt là nên khuyên cha mẹ phát tâm quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả luân hồi nghiệp báo làm việc phước thiện để tu bồi phước đức, tâm thức nhờ đó mà được an lành. Thân nầy quan trọng, nhưng rồi một ngày kia cũng phải chôn vào lòng đất lạnh hoặc thiếu thành tro bụi. Thân tứ đại giả hợp trước sau gì rồi cũng trở về cát bụi. Phần tinh thần tâm linh mới thật sự là quan trọng hiện đời và cho đời tương lai kiếp sau, Người sống mà không có niềm tin thì tinh thần không nơi nương tựa, tâm thức trở nên trống rỗng bơ vơ, như thuyền lênh đênh trên biển cả không bến bờ để đậu, thì tâm linh mãi chìm sâu trong đêm dài tăm tối. Cho nên, người con thật sự hiếu thảo đạo đức có ý thức, ngoài việc phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ ra, còn phải báo đền ân cha mẹ bằng tinh thần, mà phần này thật rất quan trọng và cần thiết cho đời sống hiện tại và tương lai, ấy là khéo khuyên cha mẹ tin Phật pháp, làm việc phước thiện.

Khi bà Kiều-Đàm di mẫu của Phật là Ma-Ha Ba-Xa-Ba-Đề ba lần xin được xuất gia, nhưng đức Phật đều từ chối. Bà thất vọng khóc than cho thân phận mình thiếu phước bọc duyên không được Phật nhận cho xuất gia! Tôn-giả A-Nan thấy vậy động lòng vào bạch Phật. Đức Phật nói: “Đạo pháp của ta trao cho nữ giới thời gian không quá 500 năm sẽ suy tàn”. A-Nan nghe thế, mới thiết tha kể lể: “Bạch đức Thế Tôn! Khi ngài vừa sanh ra bảy ngày, thì Hoàng-Hậu nhờ phước báu được sanh lên cõi trời. Di mẫu phải lo săn Sóc nuôi Ngài lớn khôn. Nay Ngài tu thành Phật, tưởng cũng nên nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng đó mà cho di mẫu Kiều Đàm xuất gia tu hành”. Đức Phật đáp: “Ta đã khuyên giảng cho di mẫu hiểu biết Phật pháp, phát tâm quy-y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả luân hồi tội phước, đó là cách báo đền ân đức nuôi dưỡng bền chắc cao cả nhất. Di mẫu đâu thiếu vật chất, còn tinh thần thì đã đầy đủ! Ta rất kính quý di mẫu, nhưng đạo pháp trao cho nữ nhơn lãnh đạo thì sau 500 năm sẽ suy tàn, trừ phi chịu nghiêm chỉnh thọ trì giới luật và Bát-kính-giới”. Di mẫu Kiều-Đàm thành tâm phát nguyện hoan hỷ nhận lãnh thọ trì, nên được phép xuất gia và trở thành tỳ-kheo-ni đầu tiên của phái nữ.

Như thế đủ thấy báo đền ân nghĩa sanh thành dưỡng dục về phần tinh thần quan trọng biết là dường nào. Đạo Phật đặc biệt chú trọng về hiếu kính cả vật chất như cơm áo thuốc thang quạt nồng đắp lạnh và báo hiếu về phần tinh thần là khuyên cha mẹ tu tâm dưỡng tính hành thiện tin Phật pháp. Nếu chỉ báo hiếu bằng vật chất không thôi thì phiến diện chưa đủ, không khéo lại chỉ tạo thêm tội lỗi mà thôi. Như sách Trung hoa Ngoại Truyện có chuyện báo hiếu thương tâm như sau: “Vào thời nhà Lương có cậu Lý Phước Tài nhà nghèo, ngày ngày phải chăn trâu mướn cho ông phú hộ Đô Trường Thạnh. Cậu Tài tánh tình hiền hậu, mau lẹ, lại thông minh. Cô gái út của ông phú hộ được cưng chìu nên ít thích chịu học, ngày ngày thường lén ông bà phú hộ để đến chuyện trò chơi giỡn với cậu Tài. Nhờ vậy, cậu Tài mượn được sách của cô Út và sách cũ của các người anh cô đã học thi đỗ đạt làm quan. Với trí thông minh, với tinh thần hiếu học, ngày chăn trâu ngoài đồng tay không rời sách, tối lùa trâu về chuồng ăn cơm nguội canh thừa của chủ lót dạ, lòng tự sát thương cho thân phận nghèo, và ước mong ngày kia có tiền nuôi dưỡng cha mẹ mình được sung sướng đầy đủ như ông bà phú hộ. Ý nghĩ đó nung nấu trong lòng cậu bé nghèo Lý Phước Tài, nên ngày đêm cậu âm thầm ra sức gắng công tự học sách. Chẳng bao lâu cậu lào thông sách sử thi đổ trang nguyên, được triều đình trọng dụng làm quan tể-tướng. Cậu bé Lý Phước Tài trước đây ở mướn chăn trâu, bây giờ đường đường là một tể tướng. Quan tể tướng hết lòng hiếu kính mẹ cha, cung dưỡng tất cả những món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị không thiếu thức gì. Cha mẹ quan ra vào có kẻ hầu người hạ. Thói thường “nhàn cư bất thiện, dục lạc biến tâm”. Chẳng bao lâu, cha mẹ quan tể tướng đắm say hút sách, rượu chè say sưa, cờ bạc đêm ngày, lại còn ỷ quyền thế con mình nên hống hách sanh ra lắm chuyện. Tiếng dị nghị đến tai, nhưng quan tể tướng vẫn lờ đi, vì nghĩ rằng cha mẹ vui thú là mình đã báo hiếu. Chẳng bao lâu hai ông bà cụ qua đời. Quan tể tướng nhớ thương tiếc nuối cha mẹ, hạ lệnh giết heo bò dê gà lo ma chay rượu thịt linh đình cúng tế đãi đằng đồng liêu, lòng tự mãn là mình đã báo hiếu mẹ cha thật là trọng thể đầy đủ lễ nghi. Quan tể tướng được tiếng khen là người con chí hiếu và triều đình ban khen “hiếu tử khá phong”.

Một ngày nọ, Tế Điên Hòa thượng được vua Lương Võ Đế mời vào cung thuyết pháp, trên pháp tòa, hướng về nhà vua, Hòa thượng nói: “Trong triều của hoàng thượng có một kẻ bất hiếu nhất thiên hạ! Tất cả ai nấy đều giật mình kinh ngạc. Nhà vua bạch hỏi, thì Tế Điên Hòa thượng chỉ vào quan tể tướng Lý Phước Tài nói: “Chính người này đã giam cha nơi địa ngục, đày mẹ trong loài súc sanh!” Nghe thế, mọi người vô cùng quái lạ, vì quan tể tướng xưa nay được tiếng khen là người con chí hiếu đáng làm gương mẫu đồng liêu thiên hạ, chẳng kém gì Tử Lộ đồ đệ Khổng Tử ngày xưa. Lúc bấy giờ quan tể tướng họ Lý thất sắc mất hồn sụp lạy cầu Tế Điên Hòa thượng chỉ dạy phương cách cứu độ cha mẹ. Hòa thượng nói ngắn một lời: “Y theo cách làm của tôn giả Mục-kiền-Liên!”

Ngay ngày hôm sau, quan tể tướng sai các quan thuộc hạ đi tìm thỉnh các bậc cao tăng bốn phương về dinh để thiết đàn chay cúng dường trai tăng siêu độ. Nhưng hai tháng trôi qua chẳng thấy bóng cao tăng nào đến cửa dinh tể tướng. Lấy làm lạ, nên quan tể tướng lại đến câu hỏi Tế Điên Hòa thượng. Tế Điên nói: “Ông đích thân cầu thỉnh chưa chắc các ngài có hứa khả đến không, huống hồ là nhờ thuộc hạ! Học rộng hiểu nhiều, quan to chức lớn như ông mà không biết người chân tu thường là xa lánh chốn hồng trần phồn hoa đô hội quan quyền sao?”

Như tỉnh ngộ, sau đó quan tể tướng đích thân đi thỉnh cầu chư tôn đức cao tăng, và hoàn thành lễ trai tăng siêu độ. Tế Điên Hòa thượng đẹp dạ cười khen: “Hiếu tử lưu phương! Giờ đây cha mẹ ông đã được siêu thoát cảnh khổ, sẽ đầu sanh làm người trong hoàn cảnh tốt,

Qua hai chuyện trên đủ biết, kính thương báo hiếu cha mẹ mà chỉ lo phần vật chất không thôi, thì quả thật chưa đủ ý nghĩ báo đến công ơn sanh thành dưỡng dục, chưa thật sự hết lòng thương cha mẹ, Điều quan trọng là phải khuyến hóa cha mẹ biết tu tâm dưỡng tính, hỷ xả làm lành, bố thí cúng dường, quy y Tam Bảo, đó mới thật là vẹn toàn báo hiếu.

Cha mẹ lỡ làm những điều không lành thiện, tin theo những việc bất chánh, cúng bái tà đạo thần linh, mê tín dị đoan, kết thân bạn ác, đam mê cờ bạc nhậu nhẹt rượu chè, thì bổn phận làm con phải khuyên can, khéo tìm lời ngọt dịu khuyến hóa để đưa cha mẹ hồi tâm chánh tín Phật pháp, đó mới thật là báo hiếu, mới cứu độ tinh thần cha mẹ. Không phải cứ kính chịu theo ý muốn cha mẹ làm những điều bất chánh tổn đức là báo hiếu. Còn khuyến hóa cha mẹ tin theo chánh đạo tu bồi phước đức, việc này có thể làm phật lòng ông bà cha mẹ không vui, nhưng không phải là bất hiếu. Cha mẹ cũng còn là phàm phu, tham sân si phủ dày tâm thức, lắm lúc cũng mê muội lầm lỗi. Thế nên người con hiếu thảo, theo tinh thần đạo Phật, phải sáng suốt trong việc báo hiếu.

Khi cha mẹ còn hiện tiền thì sớm hôm chăm sóc cung cấp đầy đủ vật chất, khuyên cha mẹ ăn ở hiền lành phát tâm tin Phật pháp. Khi cha mẹ qua đời, phải thành tâm dốc hết khả năng lo việc trai tăng cầu siêu độ. Cha mẹ ông bà có siêu thoát thì gia phong con cháu mới có cơ phát đạt. Cha mẹ qua đời mà khóc than thảm thiết, thì chỉ làm bận lòng người chết; bày biện tiệc tùng rượu thịt đãi đằng rình rang, thì chỉ buộc ràng thêm tội lỗi cho cả đôi bên kẻ chết lẫn người sống. Tốt nhất thỉnh chân tăng và mời bạn bè thân quyến đến chùa cầu siêu hộ niệm hồi hướng công đức cho hương linh, và nếu cần thì nên đãi chay lạt bạn bè, thiết lễ cúng dường trai tăng, như thế hương linh mới được phước đức siêu thăng giải thoát.

Mẹ cha là cả trời thương
Là nguồn sống của thiên đường trần gian
Mẹ cha về cõi Niết-bàn
Lòng con toại nguyện vô vàn nhớ thương.

Dù còn trẻ hay đã lớn khôn, dù đang trong cảnh hàn vi hay đã có quyền uy danh vọng, dù sống gần hay sống tha hương viễn xứ, sống ở bất cứ trường hợp hoàn cảnh nào, người con cũng không thể quên và không được phép quên ân nghĩa sanh thành dưỡng dục báo hiếu mẹ cha. Ta hãy nghe người xa quê hương hướng về quê mę:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Tình thương cha mẹ rộng lớn bao la như trăng sáng, dịu hiền, êm đềm, bùi ngọt như nãi chuối buồng cau, xót xa vui | buồn với bao kỷ niệm thấm sâu nơi lòng.

Tình thương đó đã hòa đồng với tình quê hương. Người con khi nghĩ nhở mẹ cha thì lòng như mở rộng, rạt rào sức sống trong mạch máu buồng tim:

Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi nhơn gian còn phiếm xuân cầm
Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi em còn có mẹ trong tâm.

Đến như người lính chiến cộng sản bị tuyên truyền lường gạt, chịu bao nỗi đắng cay đoạn trường, thiếu tình thương nghiệt ngã, sống trong rừng núi, cảm thấy bùi ngùi tủi thân bị đọa đày, đã thốt lên tiếng than kêu gọi tình thương mẹ hiền:

Giày vẹt gót, áo sờn vai giá lạnh
Mỗi chiều Trường Sơn núi đồi cô quạnh
Mẹ hiền ơi! Con chợt nhớ quê mình

Cho dù sống trên nhung lụa giàu sang mà khô cạn lòng hiếu kính, quên nhớ mẹ thương cha, con thiếu vắng tình thương của cha mẹ thì chẳng khác nào sống trong sa mạc, thiếu chất liệu mát dịu ấm lòng:

Mẹ đi tro bụi về tro bụi
Lầu ngọc bằng đầu một góc vườn
Ai mải mê tìm son phấn giả
Con xin đạm bạc một cành đơn
Màn trời hiếu tử nghe sao ấm.
Nệm quí công hầu biết có hơn.

Những ai đã mải mê theo đuổi công danh sự nghiệp hoặc đắm chìm trong cái tình dục vọng mà quên đi bổn phận hiếu kính báo đền ân nghĩa mẹ cha, để song thân tuổi già phải chiếc bóng lụm cụm không người đỡ đần săn sóc, thì hãy nghe tiếng gọi tình người:

Đi đâu bỏ mẹ ở nhà
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng
Đói lòng ăn bát cháo môn
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn hiếu trung.

Người con đến tuổi trưởng thành, ngày mai này phải ra đi thi hành nhiệm vụ quốc gia dân tộc, hay lập gia thất theo chồng xa quê, thì đêm nay dắt tay em ra hiên nhà dưới bóng trăng tà, mà thủ thỉ thở than gửi gắm bổn phận lại cho em để thay mình sớm hôm đỡ đần chăm sóc cha mę:

Em ơi! Em ở lại nhà
Vườn dâu em hái, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi muôn dặm trăm đường xót xa

Nếu cha mẹ đã ra người thiên cổ, thì ông bà tiên tổ chúng ta đã có dạy: “Sống có nhà, thác ra mồ”. Nắm mồ là chỗ cuối cùng của kiếp sống, là nơi kỷ niệm nghìn thu của đời người. Vì vậy, con thảo cháu hiền đối với cha mẹ lúc sanh tiền nên lo phụng dưỡng báo hiếu, khi cha mẹ qua đời nên cũng trai tăng siêu độ, xây lăng mộ để phụng thờ:

Công cha ba năm tình thâm cốt nhục
Nghĩa mẹ chín tháng dưỡng dục cưu mang
Biết lấy chi đền nghĩa thâm ân
Chừ đôi đứa mình lên non gánh đá xây lăng phụng thờ.

Đạo hiếu rất là trung hậu trọng đại như vậy, nên kinh sách thánh hiền nói: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”. Nghĩa là, hiếu là đầu trong muôn hạnh. Dù thông bác kinh sách cổ kim, danh vị tột đỉnh mà thiếu lòng hiếu kính thì đó là tinh quái hình người. Kinh điển thánh hiền cổ kim đều khuyên lấy hiếu nghĩa làm đầu: “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên”. Có nghĩa là, ngàn kinh muôn sách, hiếu nghĩa làm đầu. Bởi vì:

Người tai mắt ở trong trời đất
Ai mà không cha mẹ sanh thành
Gương treo đất nghĩa trời sanh
Ở sao cho xứng nhận mình làm con.

Ta có mặt ở đời, ta khôn lớn nên người đều nhờ cha mẹ nuôi dưỡng bảo bọc, nên kinh thi nói: “Vô phụ hư hổ, vô mẫu hà thị”. Nghĩa là, không cha thì cậy ai mà nên người, không mẹ thì nhờ ai mà nuôi nấng sống còn đến ngày nay. Ân nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ như trời biển, nếu người con chưa trọn báo đền, thì nghìn năm vẫn còn ân hận nơi lòng. Hãy nghe con thảo cháu hiện bài ngùi than thở: “Thiên tài tử tâm du bảo hám, mỗi tùng thuyết hiếu thuyết ngoan ngân”. Nghìn năm lòng con còn ôm hận, mỗi lần nhắc hiếu nhớ mẹ hiền!

Nhà Phật đặt nặng hiếu đạo. Nên kinh Phạm-Võng Bồ-Tát-Giới nói: “Hiếu là giới, cũng là pháp chí đạo”. Do vậy mà đức Phật nói trong kinh Nhẫn-Nhục: “Thiện chi cực mạc đại ư hiếu. Ác chi cực bất hiếu giả”. Nghĩa là, không có việc lành thiện nào to lớn bằng hiếu. Không việc ác nào nặng bằng bất hiếu. Trong kinh Đại Tập đức Phật còn xác quyết: “Thế nhược Vô Phật, thiện sự phụ mẫu; sự phụ mẫu, tức thị sự Phật”. Có nghĩa là, sanh ra đời nếu không gặp Phật mà khéo phụng dưỡng cha mẹ là tốt lắm. Khéo phụng dưỡng cha mẹ là như phụng thờ Phật rồi đó.

Có những người quên công ơn cha mẹ. Có những ác đảng dạy người phản bội ân nghĩa, làm khổ cha mẹ. Có những tôn giáo thờ tà thần ác quỷ thần linh thượng đế mê hoặc lòng người, khuyên dạy con người do thần linh thượng đế tạo ra, cha mẹ cũng là người, nên chỉ kính thờ thần linh thượng đế là đủ? Thật là bất nhân bất nghĩa. Rõ ràng cha mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng cực nhọc, sớm ẩm tối bồng, nuôi lớn lo cho ăn học, lập thành gia thất, công lao cha mẹ không biết đường nào kể xiết! Vậy mà chẳng biết lo báo đền, lại nghe theo lời mê hoặc phụng thờ sùng bái ác đảng quái thần viển vông không tưởng!

Người chánh kiến đạo đức, dù thế lực áp bức, hoàn cảnh bất an, giàu sang phú quý, danh vọng dụ hoặc, vẫn một lòng chung thủy:

Vai mang đức Phật Di Đà
Hiếu trung ta giữ, gian tà mặc ai.

Cha mẹ là bậc ân đức thực tế trực tiếp chịu ơn mà không thương tưởng, thì thử hỏi còn thương tưởng ai được? Khi sa cơ lỡ vận được người cho bát nước, giúp ít tiền còn biết cúi đầu cảm ơn. Đằng này cha mẹ trọn đời hy sinh cho mình biết bao là công của thì lại bảo là thần linh thượng đế nến tạo, ác đảng bao dưỡng, thử hỏi người có chút lương tâm kiến thức nghe được chăng? Người không hiếu kính phụng thờ cha mẹ ông bà thì đối với quốc gia dân tộc đồng loại nhất định họ không có lòng thương. Họ chỉ nương dựa thế lực đồng bào để tạo thanh thế cá nhân, ra sức làm tay sai cho ngoại bang để được giàu sang danh vọng, chứ chẳng có lòng yêu nước thương dân. Chẳng may gia đình xã hội quốc gia có hạng người như thế, là tai họa cho giòng giống dân tộc đất nước. Bởi đấy là mầm mống của bất ổn hỗn loạn. Thế nên cổ đức từng dạy: Có hiếu mới có nghĩa, có trung, có tín. Bất hiếu thì nghĩa, trung, tín bất thành.

Hiển thị thêm
Back to top button