HT Thích Như Điển: Ý nghĩa việc An Cư Kiết Hạ


Đã có nhiều vị hiểu rõ ý nghĩa của việc An Cư Kiết Hạ; nhưng cũng có lắm người Phật Tử chưa rõ; nên hôm nay chúng tôi xin viết và nói sơ lược về ý nghĩa “AN CƯ KIẾT HẠ”.

Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế mỗi năm Ngài và đệ tử của Ngài đi du phương hóa độ chỉ 9 tháng – 3 tháng còn lại, Đức Phật và Tăng chúng ở một nơi yên ổn, không di chuyển đi nơi khác, để tu hành và chuyên tâm vào việc hành trì giới luật cũng như thực tập Thiền định. Ba tháng này bắt đầu từ Rằm Tháng Tư đến Rằm Tháng Bảy âm lịch. Ba tháng ấy là mùa mưa của xứ Ấn, côn trùng hay sinh sản nhiều. Đức Phật không muốn giẵm chân mình lên bao vạn sinh linh, nên Ngài chế ra phép An Cư Kiết Hạ là vì lý do trên.

Rồi từ đó Đạo Phật dần dà được truyền sang các nước khác ở phương Bắc và phương Nam Ấn Độ; chư Tăng vẫn một mực hành trì. Đối với những vị đã thọ giới Tỳ Kheo, nếu mỗi năm có an cư thì mới kể một tuổi đạo. Đối với các Tăng sĩ mới xuất gia hay thọ Sa Di, việc an cư cũng trở nên cần thiết, vì đó là cơ hội để học hỏi và tu trì. Các vị Cư sĩ tại gia Bồ Tát hay ngũ giới cũng có thể theo hộ đạo và học hỏi để tiến tu đạo nghiệp.

Thông thường những Phật Học Viện, các Tổ Đình hoặc các chùa lớn tại Việt Nam mỗi năm đều tổ chức An Cư Kiết Hạ như vậy. Các vị Tăng sĩ ở những chùa nhỏ, hay những nơi không tổ chức được an cư cũng tụ hội về một nơi nào đó để nhập chúng an cư.

Theo đúng luật Pháp chế, cứ 4 vị đã thọ giới Tỳ Kheo trở lên có làm phép Yết Ma bạch Phật nhập hạ thì mới đúng phép an cư. Nếu không được 4 vị – 3 vị hay 2 vị hoặc 1 vị trở xuống cũng có thể làm phép Kiết Giới An Cư; nhưng đó chỉ gọi là Tâm Niệm An Cư hoặc Đối Chúng An Cư mà thôi.

Thường sau lễ Phật Đản – vào sáng sớm ngày 16 tháng 4, Tăng chúng vân tập nơi hậu tổ của chùa để nghe Thầy Tri Sự cáo bạch cùng các bậc tôn túc để làm phép Yết Ma cho việc An Cư Kiết Hạ. Chư Tăng lễ Tổ và vân tập lên chánh điện.

Sau khi lễ Phật và làm lễ hòa hợp Tăng, vị Trụ Trì hay một vị Thượng Tọa lớn tuổi đạo nhất đi làm phép kiết giới chung quanh vườn chùa (đất Già Lam) và những nơi quan trọng trong chùa, như giếng, nhà trù, Đông Tây Nam Bắc, 4 hướng chung quanh chùa. Phép này cho biết là ranh giới của chư Tăng được ở và ngoài ranh giới này thì phải làm phép Yết Ma. Sau đó vị Tri Sự sẽ thông báo chương trình tu học trong 3 tháng để chư Tăng lãnh hội và lần lượt lễ Phật, lễ Tổ lui về hậu đường.

Theo đúng phép An Cư Kiết Hạ – vị Tăng sĩ an cư dầu là bậc Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Đại Đức Ni, Thức Xoa Ma Ni, Sa Di, Sa Di Ni đi chăng nữa phải ở trọn 90 ngày đêm trong đại giới đã làm phép Yết Ma kiết giới – không đi ra khỏi vườn chùa mới hợp lệ. Nhưng nếu vì duyên sự Phật Pháp cần phải đi xa khỏi chùa một ngày một đêm nhẫn đến 40 ngày đêm cũng được phép nhưng với điều kiện sau:

Vị nào đi khỏi nơi kiết giới một ngày một đêm thì có thể xin phép một vị Thượng Tọa lớn tuổi nhất để đi, không có lỗi. Nếu từ 2 đêm đến 7 ngày 7 đêm phải có 4 vị Thượng Tọa đồng ý. Nếu từ 7 ngày đêm đến 40 ngày đêm phải được tất cả Chúng Tăng đồng ý. Nếu trong Chúng có một người không đồng ý, việc ra đi không thành. Nếu đi quá 40 ngày đêm khỏi chỗ kiết giới xem như việc an cư không thành và không có tuổi đạo.

Chương trình tu học hằng ngày rất nghiêm nhặt: Từ sáng sớm khoảng 4 giờ 30 phút thức dậy – tham thiền. 5 giờ công phu khuya, trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm. Đến 7 giờ chấp tác, làm những công việc ngoài vườn và trong chùa. 8 giờ sáng dùng cháo. 9 giờ đến 11 giờ 30 phút và 15 đến 17 giờ là giờ học tập kinh điển, giáo lý của chúng Sa Di, Sa Di Ni hoặc Thức Xa Ma Ni hoặc Cư Sĩ. Nếu những vị đã thọ Tỳ Kheo và các bậc Tôn Túc Thượng Tọa khác dành thì giờ này để dịch kinh, dịch sách hoặc dạy Tăng Chúng.

12 giờ trưa là giờ cúng quá đường, dùng cơm và đi kinh hành. Sau đó xuống nghỉ trưa khoảng 1 tiếng đồng hồ để tiếp tục khóa học buổi chiều.

17 giờ 00 phút là giờ công phu chiều hay còn gọi là Thí Thực Cô Hồn.

Khoảng 18 giờ 30 phút là giờ dùng cháo. Đến 20 giờ có khóa lễ Tịnh Độ.

Từ 21 giờ đến 23 giờ là giờ học bài và ôn bài.

Trước khi đi ngủ tất cả Tăng Chúng ngồi Thiền độ 30 phút.

Ngoài ra tối ngày 14, ngày 30 hoặc ngày 29 (tháng thiếu) âm lịch đều có lễ Hồng Danh Sám Hối. Sáng ngày rằm và mồng một có lễ Chúc Tán, Thù Ân và Tụng Giới.

Vào các ngày thứ bảy và chủ nhật thường hay tổ chức Thọ Bát Quan Trai cho các Phật Tử tại gia – một ngày một đêm 24 tiếng đồng hồ, học hạnh của người xuất gia để tạo nhân lành giải thoát.

Gần đến Rằm Tháng Bảy có một lễ khá quan trọng gọi là lễ Tự Tứ, nghĩa là lễ thọ nhận tuổi hạ và sám hối đối với bậc Tôn Túc bên trên hoặc ngang hàng. Lễ này nhằm kiểm điểm thành quả tu tập của vị Tăng sĩ trong 3 tháng An Cư Kiết Hạ có như thế mới thấy được những điểm hay và những điều nên tránh trong cuộc đời hành đạo của người Tăng sĩ.

Phật chế giới cho Tăng sĩ cũng như Cư sĩ không ngoài mục đích là giữ gìn mối đạo cho có quy củ. Vì Đức Phật có dạy rằng: “Giới Luật là Thầy của tất cả – Giới Luật còn, Phật Pháp còn. Giới Luật mất, Phật Pháp mất”. Một vị Tăng sĩ không có giới đức, sống xa giới luật chẳng khác nào con hổ, loài chúa tể sơn lâm đã xa lìa khỏi núi. Vì thế mới có câu rằng: “Tăng ly chúng Tăng tàng, Hổ ly sơn hổ bại”.

Thế nhưng ai đã thọ giới và phạm giới, chính người ấy chịu, chứ không có ai chịu thế được cho ai cả. Và cũng vì thế nên người nào thọ ở giới nào chỉ hành trì trong phạm vi của người ấy, những giới cao hơn không được quyền biết đến, nếu chưa thọ giới. Ví dụ như vị Cư sĩ không được quyền nghe giới của Sa Di. Vị Sa Di không được quyền nghe giới của Tỳ Kheo. Sợ rằng những người không ý thức được giá trị của giới luật sinh tâm kiêu mạng, khi thấy người khác không hành trì, hoặc hành trì sai – chính người không thọ giới đó dễ đọa vào nơi khổ nạn và chính người không hành trì cũng thế, nên chư Phật và chư Tổ chế ra điều đó rất nghiêm nhặt, nhằm ngăn chận những người tâm không đoan chánh.

Cũng chính vì tâm niệm việc an cư và giữ giới quan trọng như thế nên năm nay (1984) sau Đại Lễ Phật Đản 2528 ngày 25, 26, 27/5/1984 chư Tăng chùa Viên Giác tại Tây Đức quyết định An Cư Kiết Hạ để kiểm thúc thân tâm, tu hành công đức, nhiên hậu mới có thể phục vụ đồng bào một cách đắc lực hơn.

Cũng chính vì thế – nên chúng tôi xin được yên tĩnh tu hành trong 3 tháng hạ, bòn một công đức trong vô lượng công đức khác của người tu, xin được phép không nghe điện thoại – dầu là chuyện tối cần – trong suốt 3 tháng An Cư Kiết Hạ – có thể chỉ trả lời thơ; nhưng rất giới hạn. Tuy nhiên quý vị cứ liên lạc về chùa. Vì ở đây sẽ có những vị Cư sĩ hộ đạo, trả lời cho quý vị. Nếu chẳng may trong lúc chư Tăng an cư kiết hạ mà gặp người qua đời, chúng tôi cũng xin được phép không đi đưa đám. Nếu tang chủ muốn cầu siêu độ hoặc làm tuần thất cho chư hương linh có thể về thẳng chùa để chư Tăng làm lễ chú nguyện.

Thứ bảy và chủ nhật hằng tuần tại chùa Viên Giác đều tổ chức lễ Thọ Bát Quan Trai, quý vị Phật Tử Cư Sĩ tại gia cố gắng dàn xếp việc nhà để về chùa tu tập, công đức ấy thật vô lượng vô biên.

Nếu trong 3 tháng An Cư Kiết Hạ ấy, có vị Cư sĩ tại gia nào gia duyên không bị ràng buộc, có thể về chùa ở luôn trong 3, 2 hoặc 1 tháng tu tập và hộ đạo, giữ giới, trì trai v.v… chúng tôi cũng xin nhiệt liệt tán dương công đức.

Sau bao nhiêu năm làm việc cho đồng bào, hay tu niệm cho chính mình thì đúng hơn – chúng tôi cần di dưỡng tinh thần trong thời gian tối thiểu 3 tháng như thế. Kính mong các bậc Tôn Túc từ bi mẫn nạp và đại xá cho những điều lầm lỗi. Kính đến quý vị Đạo Hữu và quý Phật Tử gần xa một mối Đạo tình thâm hậu và dám mong rằng quý vị không phiền, không trách chư Tăng bị khiếm diện trong các buổi lễ cưới hay ma chay hoặc sự tham dự với các đoàn thể bạn trong những cuộc lễ lộc, thuyết trình… Và để chư Tăng có đầy đủ điều kiện trong việc tu hành. Kính mong quý vị đàn na thí chủ tiếp tục hộ đạo từ vật chất đến tinh thần như trước đây để mùa An Cư năm nay được thành công viên mãn.

Kính nguyện Đức Bổn Sư từ bi gia hộ cho đại nguyện của chúng con sớm đạt thành và nguyện cầu cho thế giới được hòa bình nhân sinh an lạc, vạn sự kiết tường như ý.

Kính Nguyện.

[trích Những đoản văn viết trong 25 năm qua]

Hiển thị thêm
Back to top button