HT Thích Phước An: Trần Thái Tông và cuộc lên đường tìm kiếm một quê hương vĩnh cửu
Khi giã từ núi Yên Tử trở về lại kinh đô Thăng Long – Thiền sư Trúc Lâm đã căn dặn Trần Thái Tông:
“… Nay muôn dân đã muốn bệ hạ về, thì bệ hạ không về sao được! Duy có việc nghiên cứu nội điển thì xin bệ hạ đừng chút xao lãng mà thôi…”
Trần Thái Tông đã nghe theo lời thầy dạy, và nhất là tiếng réo gọi của nội tâm bức bách nên đã không bỏ lỡ một cơ hội nào trong việc nghiên cứu đạo Phật.
Hôm ấy có lẽ là ngày rảnh rỗi triều chính, Trần Thái Tông đến chùa Thanh Phong thăm Thiền sư Đức Sơn và ở lại đêm. Bấy giờ, chắc cũng đã khuya lắm rồi. Trước sân chùa chỉ còn có Thiền sư Đức Sơn và Trần Thái Tông đứng ngắm trăng. Đêm mênh mông và tĩnh mịch quá, một cơn gió nhứ lay động cây tùng bách mà cũng nghe được tiếng động. Trong giờ phút tâm và cảnh như hòa nhập chung đó, Trần Thái Tông thấy tâm hồn mình tràn ngập niềm vui và nhà vua đã cao hứng làm một bài thơ:
Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình,
Tâm kỳ phong cảnh cọng thê thanh
Cá trung tư vị vô nhân thức
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh.
(Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn)
Gió đập hiên tùng, nguyệt dọi sân,
Tình này cảnh ấy, luống bâng khuâng.
Mùi thiền trong đó nào ai biết,
Thức suốt đêm trường vui với tăng
(Mật Thể dịch)
Thiền tông là tông phái chính của Phật giáo Việt Nam, mà Thiền lại có khuynh hướng về thiên nhiên: thiên nhiên là cây cỏ, hoa lá, đất đá, núi sông, mưa nắng, trăng nước cùng mây gió, vì thế mà hầu hết những ngôi chùa của Việt Nam đều được thiết lập trên rừng núi, hoặc tại các thôn làng hẻo lánh, tránh xa các khu dân cư.
Những ai đã từng trải qua năm tháng sống cô tịch tại các chùa trong thôn xóm vắng vẻ của Việt Nam, thì sẽ dễ nhận ra bài thơ trên, một bài thơ Thiền hay tuyệt, mà Trần Thái Tông đã gởi lại cho chúng ta.
Sứ mạng của Phật giáo trên thế gian nầy là đánh thức giấc ngủ mê của con người dậy: “Làm sao vui cười, có gì thích thú, khi ở trong cõi đời luôn luôn bị thêu đốt? Ở trong chỗ tối tăm, bưng bít, sao không tìm tới ánh sáng quang minh”. (PC 146)
Con người đang đi trong đêm tối mông lung – nhưng đau đớn thay, chúng ta không biết chúng ta đang đi trong bóng tối.
Trần Thái Tông, trong một bài thơ, đã ghi lại hình ảnh một ngư ông say sưa nằm ngủ trên chiếc thuyền, trong khi bốn bề cuồng phong đang nổi dậy. Những cơn sóng to dữ dội đẩy chiếc thuyền trôi dạt trên dòng sông vô định, nhưng mà ông già vẫn nằm ngủ, và không hề hay biết. Đến khi trời quang mây tạnh, chợt tỉnh giấc thì thấy đêm đã sắp tàn, và trăng cũng sắp lặn trên dòng sông dài kia rồi.
Bãi đãng cuồng phong quát địa sanh
Ngư ông túy lý, điếu chu hoành,
Tứ thùy vân hợp âm mai sắc
Nhất phái ba phiên cổ động thanh.
Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch
Lôi xa luân chuyển mộ oanh oanh,
Tạm thời trần liễm thiên biên lĩnh
Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ canh.
Đất nổi cuồng phong cát bụi bay
Ông chài say tít, mặc thuyền quay
Bốn phương mây tụ màu u ám
Một ngọn trào dâng, tiếng chuyển lay
Sầm sập trận mưa dồn dập đổ
Ầm ầm xe sấm tít mù xoay,
Bụi trần tạm lắng, bên trời tạnh
Trăng lặn, sông dài, canh mấy đây?
(Đỗ Văn Hỷ, Đào Phương Bình, Băng Thanh dịch)
Câu thơ cuối, có cái gì vừa luyến tiếc, và vừa như ân hận:
Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ canh.
Trăng lặn, sông dài, canh mấy đây?
Đọc Trần Thái Tông – chúng ta thấy thời gian luôn luôn ám ảnh ông – vì thời gian làm sụp đổ tất cả: tuổi trẻ, sắc đứp, danh vọng, tài sản – và lúc nào ông cũng thao thức muốn chuyển cài hữu hạn thời gian thành cái vô hạn: Ở đó không còn sự đau khổ nửa, sự tàn phá nữa. Nếu ngày nào chúng ta chưa làm được điều này mà chỉ để thời gian lướt qua trong lãng quên thì sẽ làm cho chúng ta ân hận vô cùng.
Khi viết “Phổ Thuyết Tứ Sơn”, Trần Thái Tông đã đem bốn cái cảnh khổ lớn nhất của kiếp người: sanh, lão, bệnh, tử – theo quan điểm của Phật giáo, để ví như sự vận hành của bốn mùa trong một năm, thì chúng ta thấy Trần Thái Tông đã yêu cái đứp đến chừng nào, và càng xót xa không kém khi thấy cái đứp bị thời gian hủy diệt:
Đây là mùa Xuân: “… Tướng sanh của người là mùa xuân trong năm. Khỏe khắn thay sự thịnh vượng của dương xuân, mới mẻ thay vẻ tốt tươi của muôn vật. Một trời sáng đứp, xóm thôn liễu biếc đào hồng, muôn dặm phong quang, chốn chốn oanh ca, bướm múa”.
Và đây là lúc cái đứp sắp qua – và cũng là buổi xế chiều của kiếp người – Trần Thái Tông viết về mùa Thu: “Tướng bệnh của người là mùa thu trong năm, gặp khi sương buốt mới sa, vừa lúc cỏ xanh đều úa. Cây xanh rừng rậm, gió vàng một trận đã tiêu sơ, núi biếc non xanh, móc ngọc vừa rơi thêm lạnh lẽo”.
Vậy là khi viết về khổ đế của Phật giáo – Trần Thái Tông không phải là một nhà thuyết giáo suông, mà còn là một nghệ sộ tài hoa đã thực sự rung động trước cái đứp và đau khổ vì sự tàn phá của thời gian đối với cái đứp nữa!
Nhưng vì sao Trần Thái Tông sớm thức tỉnh trước sự đau khổ của cuộc đời như vậy? Vì nếu một người có tâm hồn bình thường, mà được ở vào địa vị của Trần Thái Tông thì họ chỉ biết thỏa mãn để mà hưởng thụ, chứ đau khổ để làm gì? Có nhiều người cho là vì chuyện riêng tư. Vì Thái Tông bị Trần Thủ Độ ép lấy chị dâu. Dộ nhiên, một tâm hồn như Trần Thái Tông thì phải đau khổ trước một việc làm phi đạo lý như vậy rồi. Nhưng trên tất cả, một tâm hồn vộ đại thì luôn luôn phải lấy sự đau khổ của thiên hạ làm cái đau khổ của chính mình, và lấy niềm vui của mọi người làm niềm vui của mình. Sự đau khổ riêng tư chỉ đóng một vai trò nhỏ trong hành động của họ mà thôi.
Một tâm hồn như tâm hồn của Trần Thái Tông, thì không một niềm vui nào có thể mê hoặc và lường gạt được nữa, dù ông đang nắm trong tay quyền thống trị cả một quốc gia. Điều này được Thái Tông nói rõ với Đại sa môn Trúc Lâm tại núi Yên Tử:
“… Lại nghộ sự nghiệp các đế vương thuở trước thay đổi bất thường, cho nên tìm đến núi này chỉ muốn được thành Phật, chứ không cầu gì khác”.
Đó là tâm trạng của một kẻ chỉ muốn thoát ra khỏi mọi hệ lụy của đời sống tầm thường mà bước đến một chân trời cao rộng hơn. Cho nên khi nghe Thiền sư Trúc Lâm lên tiếng:
“Lão Tăng ở nơi sơn dã đã lâu, xương gầy mặt võ, ăn rau đắng, nếm trái cây, chơi cảnh rừng, uống nước suối, lòng như mây nổi, theo gió đến đây. Nay bệ hạ muốn bỏ ngôi nhân chủ, tìm sự nghèo hèn nơi núi rừng, chẳng hay bệ hạ muốn cầu gì mà đến đây?”
Trong cách nói của Trúc Lâm thiền sư, chúng ta phải hiểu rằng Thiền sư đã tự khẳng định đời sống giải thoát của chính mình. Dù đang sống tại thế gian, mà tâm đã ra khỏi thế gian, không còn bị thế gian trói buộc nữa. Đó chính là đời sống lý tưởng mà Trần Thái Tông đang mơ ước tìm đến. Nên khi nghe Trúc Lâm thiền sư vừa dứt lời, thì Trần Thái Tông quá xúc động, mà rơi lệ.
Giọt nước mắt của Trần Thái Tông là giọt nước mắt sung sướng vì con đường giải thoát đã mở ra trước mặt.
Vì quá khát khao thực hiện cho kỳ được giấc mộng của mình, nên Trần Thái Tông đã ra đi. Có lẽ, cuộc ra đi vộ đại của đức Thế Tôn vẫn còn tác động mãnh liệt trongtâm hồn Trần Thái Tông, nên theo chính lời thuật của Trần Thái Tông như sau:
Đêm mùng 3 tháng 4 năm Bính Thân, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 3, trẫm cải dạng ra khỏi cửa cung, rồi bảo với tả hữu rằng: “Trẫm muốn ra ngoài chơiđể lắng nghe tiếng nói của dân, xem xét lòng dân, ngõ hầu biết được mọi khó khăn của công việc…”
Cuộc ra đi thật gian nan, nhưng cũng thật cảm động. Ta hãy nghe kể tiếp:
Bấy giờ tả hữu đi theo trẫm chỉ 7, 8 người. Giờ Hợi đêm ấy, trẫm cưỡi một ngựa lặng lẽ ra đi; qua sông về phương Đông, mới mang tình thực nói với tả hữu. Họ đều ngạc nhiên rơi nước mắt. Giờ Mão hôm sau đến bến đò núi Phả Lại, sông Đại Than. Sợ có người biết, trẫm lấy tay che mặt qua sông, rồi đi tắt theo đường núi, đến tối vào nghỉ ở chùa Giác Hạnh, đợi sáng lại đi. Lặn lội vất vả, núi hiểm, suối sâu, ngựa mỏi không tiến lên được nữa, trẫm liền bỏ ngựa vịn vách đá mà lần bước. Giờ Mùi đến sườn núi và yết kiến vị Quốc sư Đại sa môn phái Trúc Lâm…”
Lịch sử của nhân loại đã từng ghi chép quá nhiều về những chuyến ra đi của các hoàng đế, nhưng tất cả đều ra đi để xâm lăng, nghộa là chinh phục thiên hạ bằng lưỡi kiếm, chứ chưa có một cuộc ra đi nào như Trần Thái Tông đã thực hiện, ra đi để tự chinh phục chính mình.
Nhưng rồi giấc mộng không thành tựu, bị bắt buộc phải trở về lại chính nơi mà mình đã cố chối bỏ. Dù không sống được một đời sống “Chơi cảnh rừng, uống nước suối, lòng như mây nổi” như các Thiền sư. Nhưng Trần Thái Tông vẫn không từ bỏ khát vọng giải thoát của mình. Với trách nhiệm của một nhà lãnh đạo quốc gia thì công việc triều chính bận rộn đã là một cản trở rồi, mà lại còn phải đối mặt với vấn đề khó khăn nữa, đó là sự cám dỗ của dục vọng, vì lạc thú của trần gian thì nằm gọn trong tay của vị vua. Trần Thái Tông rất ý thức điều này, Khi ông viết trong lời tựa của Lục thời sám hối khoa nghi:
“… Trẫm nhờ lòng trời yêu mến, ở ngôi chí tôn. Việc dân vất vả, việc nước bộn bề. Phồn hoa cám dỗ bên ngoài, thì dục vọng vò xé trong dạ. Miệng chán cao lương, mình đầy vàng ngọc. Mắt, tai, tôi tớ sắc thanh, ăn ở yên trong đài lạ”.
Trong phần viết về Sám hối lục căn: nhãn, nhộ, tỷ, thiệt, thân, ý. Đứng về phương diện sáng tác thì không có gì mới mẻ rồi, Vì phần nhiều cũng chỉ lấy lại ý từ các kinh và nghi thức về Sám hối. Tuy vậy chúng ta cũng thấy được phản ảnh phần nào cuộc chiến đấu quyết liệt của Trần Thái Tôngtrước sự quyến rũ của hương sắc cuộc đời.
Nhưng khi đọc “Sơ nhật thì” (Thời sáng sớm); “Trung nhật thì” (Thời giữa trưa); “Nhật một thì” (Thời mặt trời lặn) v.v… đã hay về phương diện văn chương rồi, mà còn thấy rõ tâm trạng của Trần Thái Tông nữa. Đó là tâm trạng của một kẻ luôn luôn sợ thời gian trôi qua mà không làm được gì cho sự thành tựu những giá trị vĩnh cửu nơi chính bản thân mình. Bởi vậy, khi:
Vừng đông vừa tang tảng
Mặt đất sáng dần dần
Chạm lòng, đời náo nức
Lóa mắt sắc tưng bừng
Cùng với sự bừng dậy của mặt trời – Trần Thái Tông thúc giục:
Xác thối đừng tham giữ
Mái đầu sớm liệu nâng
Ân cần sáu khóa niệm
May được hợp cơ chân
(Đào Phương Bình dịch)
Ông muốn chuyển hóa ngay lập tức, phải đạt cho kỳ được cái thiên thu vĩnh cửu giữa lòng thời gian đau khổ này. Nếu không, con người vẫn luôn luôn là một kẻ lang thang, đi mãi mà không tìm thấy được đường trở về:
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình
Lênh đênh làm khách phong trần mãi
Ngày hết, quê xa vạn dặm đường
(Nguyễn Lang dịch)
Nhưng đi về nơi nào? Sau những đám mây phủ kín kia chắc?
Thùy tri vân quyển, trương không tịnh
Thúy lộ thiên biên, nhất dạng sơn
Ai hay mây cuốn trời quang tạnh
Hiện rõ bên trời dáng núi cao
(Nguyễn Lang dịch)
Dáng núi cao đó, chính là quê hương vĩnh cửu, là bản lai diện mục mà Trần Thái Tông đã muốn chính mình và mọi sinh linh đau khổ trên trần gian này lên đường trở về.
Nếu cuộc Cách mạng Pháp 1789 ở thế kỷ XVIII đã ảnh hưởng lớn lao trên khắp thế giới về tư tưởng “dân quyền” hay nói một cách khác là “Lấy dân làm gốc” thì vào thế kỷ XIII tại núi Yên Tử của quê hương, Thiền sư Trúc Lâm cũng khuyên nhà lãnh đạo nước Đại Việt đương thời, nên tôn trọng con người, nhưng bằng một phong cách khác, phong cách trầm lặng của nhà tư tưởng Đông phương:
“Phàm đã là bậc nhân quân, tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình”.
Trần Thái Tông vâng lời thầy xuống núi trở lại, và bắt tay ngay vào việc xây dựng quốc gia. Dù là một Phật tử thuần thành nhưng ông không cực đoan, mà biết rõ những tư tưởng đương thời nên đã dung hòa tất cả với mục đích là đoàn kết dân tộc, khác hẳn với thái độ hứp hòi của các nho sộ khi đắc thế thì triệt để bài xích Phật giáo, làm nguy hại cho đất nước, mà lịch sử đã từng chứng minh.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép:
“Năm Nguyên Phong thứ nhất, mùa thu tháng 8 mở khóa thi Tam giáo các khoa. Năm Nguyên Phong thứ 3, Quý Sửu, mùa hạ tháng 6 lập viện Quốc Học, tô tượng Khổng Tử, Mạnh Tử, Chu Công và họa tranh 72 bậc hiền để thờ. Tháng 8 mở nhà Giảng Võ, tháng 9 ban chiếu gọi Nho sộ trong nước đến Viện Quốc Tử Giám để giảng học kinh sách nho… Tứ thư, Lục kinh”.
Chính nhờ tinh thần đó mà Thái Tông đã lãnh đạo toàn dân, đánh tan đạo quân hung hãn nhất thời bấy giờ đến xâm lược nước ta.
“Ngày 24 tháng chạp năm Nguyên Phong thứ 7 (29-1-1258) Thái Tông đã cùng thái tử Hoảng chỉ huy đoàn thuyền ngược dòng Thiên Mạc, phá tan giặc ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại kinh thành”.
Và đất nước dưới quyền lãnh đạo của Thái Tông, đứp như một bài thơ:
“Thăng Long giải phóng. Những ngày thanh bình trở lại trên đất nước. Dân nghèo và nô tỳ theo vương hầu đi khai hoang. Những người thợ nề đi xây chùa Phổ Minh. Nhà sử học Lê Văn Hưu cặm cụi hoàn thành bộ sử của mình và Hàn Thuyên làm thơ nôm đuổi cá sấu ở sông Hồng”.*
Vào một ngày Xuân, vua Trần Nhân Tông cùng các quan trong triều đi thăm mộ ông nội và đồng thời cũng là người khai sáng ra triều đại nhà Trần oanh liệt. Nhà vua đã cao hứng làm bài thơ “Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng”, có hai câu cuối như thế này:
Bạch đầu quân sộ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay
Thường kể lại chuyện đời Nguyên Phong.
Không phải chỉ những người lính già đầu bạc thời Trần Nhân Tông kể mãi chuyện đời Nguyên Phong đâu, mà cả đến ngày nay nữa, mỗi khi chúng ta bước đi trên những nẻo đường của quê hương, hay đứng lại nhìn dòng sông, rồi nhìn rặng núi, thì chúng ta vẫn nhắc hoài chuyện đời Trần Thái Tông.
Vì chẳng phải Người là một trong những người đã khai sơn phá thạch đó sao?
* Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, trong tác phẩm cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ thứ XIII, tr.80