Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn: Tu Bụi
Truyện dài

LỜI MỞ
Tu Bụi Là Tu Giữa Bụi Trần
Tu giữa đời thường, sen trong lửa,
“Tu bụi” là tu giữa bụi trần.
Xin được viết đôi dòng cảm nghĩ của mình về tác phẩm Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn.
Số là rất tình cờ, tôi và anh Đoàn cùng dạy lớp mùa Hè ở trường Lutheran Pacific University tại Olympia, Washington State, tháng 6 năm 2001. Hai chúng tôi được xếp chung hai phòng sát nhau trong cư xá giáo sư trường đại học LPU và cũng là hai người Việt duy nhất ở đây. Anh Đoàn dạy môn Psychotherapy và tôi dạy môn Physiotherapy nên có dịp làm việc chung trong khóa học. Tôi ham thể thao, anh Đoàn ham viết lách, nhưng trời Olympia mưa nhiều hơn nắng, nên tôi thường bị bó chân trong cư xá sau giờ dạy. Ở nhà nhiều, tôi đâm ra tò mò vì thấy ngày nào, đêm nào, ngoài giờ lên lớp, người ở phòng bên cạnh cũng say sưa gõ máy.
Hỏi ra, mới biết anh Trần Kiêm Đoàn đang viết một cuốn truyện dài bằng tiếng Việt. Sống xa quê hương từ năm 1965, tiếng Việt đối với tôi là một “linh tự” vì đó là tiếng nói yêu thương của ngày xưa Quê Mẹ. Đến khi đi mòn chân, gần khắp hết các nẽo đường xứ người, tôi mới hiểu và cảm thấy yêu một nhân vật trong sách Giáo Khoa thuở nhỏ tôi học, khi ông ta đi khắp bốn phương và trở lại làng cũ nói rằng: “Không nơi nào đẹp bằng quê hương ta!” Đẹp, vì đó là nơi mẹ tôi đã sinh tôi ra và tập cho tôi tiếng nói đầu đời bằng tiếng ru của Mẹ. Tôi yêu Quê Hương, yêu Mẹ nên yêu Tiếng Nói của Mẹ mình.
Học tiếng người, nói tiếng người, viết tiếng người, dạy tiếng người, nên tôi thèm tiếng Mẹ. Tôi đã năn nỉ với anh Đoàn cho tôi đọc những trang tiếng Việt mà anh đang viết. Lúc đó, tuy anh mới viết 3 chương bản thảo trong số vài ba chục chương dự định cho tập sách, nhưng cũng đồng ý cho tôi xem. Tập sách tương lai chưa có tên. Tác giả chỉ cho biết đơn sơ rằng, anh muốn đem tinh thần hóa giải của Phật giáo để giải quyết những vấn đề khúc mắc trong tâm lý nhân vật của cuốn truyện.
Khi tôi hỏi về nhan đề cuốn sách, anh Đoàn đưa ra nhiều tên mà anh đang nghĩ đến để hỏi ý tôi. Trong số những tên làm tôi chú ý, có tên “Tu Giữa Bụi Trần”. Tôi liền đề nghị với tác giả rút gọn 4 chữ thành 2 chữ là… Tu Bụi! Vốn là nhà giáo và cựu huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam, anh Đoàn hơi giật mình vì cụm từ “tu bụi” nghe có vẻ “phiêu bạt giang hồ” quá. Nhưng tôi đã cố thuyết phục và đã được tác giả chấp nhận. Tôi đã đưa ra ý kiến rằng: Về nội dung, “Tu Bụi” mang một hình tượng dấn thân của kẻ hành đạo giữa thế giới Ta Bà; về hình thức, “Tu Bụi” có một độ bám đặc biệt, khó chìm trong một thế giới đầy chữ nghĩa và danh từ hoa mỹ. Nó níu được sự tò mò và chú ý của người đọc. Nếu so với những tên khác nghe có vẻ thuần thành, văn vẻ hơn nhưng lại trơn tuột, đọc xong sẽ quên ngay.
Thế là khái niệm “tu bụi” ra đời như một cái duyên vừa thuận vừa nghịch. Thuận, vì nói lên được tinh thần nhập thế của sự tu hành; đồng thời, nắm bắt được sự tò mò chú ý và quan tâm của người đọc. Nhưng nghịch, vì hình tượng chữ nghĩa quá mới mẻ và đầy tính phiêu lãng, chưa hề có ai dùng.
Chờ mãi cho đến 4 năm sau tôi mới được đọc chương cuối cùng của Tu Bụi.
Tôi rời xứ Việt và nhập vào dòng Phật giáo Sri Lanka đã hơn 40 năm nay. Tôi thuộc Đạo Tràng Tân Tích Lan Thiền Tông (New Theravada Sangha of Ceylon). Đây là một đạo tràng chủ trương đổi mới, tu và tìm sự giải thoát ngay giữa cuộc đời nầy.
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố. Từ vị trí của một vị hoàng thân, được tiên vương tin tưởng, nhưng lại bị tân vương nghi ngờ, nhân vật Trí Hải từ địa vị cao sang, bước vào cuộc đời gió bụi. Ông ta cũng có khi bị trôi nổi, vùi dập trong từng chặng đời khi lên, khi xuống qua hoàn cảnh sống và qua suy tư của riêng ông. Gặp những lúc khó khăn và khúc mắc nhất trong cuộc sống, Trí Hải phải dựa vào tinh thần hóa giải của đạo Phật để tìm ra phương hướng giải quyết. Hóa gỉải theo tinh thần đạo Phật trong Tu Bụi có ba cấp độ: Biết rõ vấn đề là gì; hiểu và có khi sống thật với vấn đề; và sử dụng toàn trí, toàn tâm để chuyển hóa trong tinh thần từ bi và trí tuệ. Đấy là cách giải quyết vấn đề ít thiệt thòi nhất và không gây đau khổ cho mình và cho người bởi vì cốt tủy của sự thay đổi hay “tu” là chuyển hóa thực tế chứ không tiêu diệt vấn nạn bằng danh từ suông hay bằng sự ỷ lại siêu hình, dễ dãi nào cả. Như lối thoát cho một cuộc tình đầy đam mê, thơ mộng nhưng ngang trái giữa Trí Hải và Ba Gấm không phải là một ngõ cụt của tuyệt vọng, hủy hoại mà là một sự chuyển hóa từ dục vọng tầm thường qua lòng thương quý và sự hy sinh cao thượng cho mình và cho người. Từ gốc rể, Trí Hải, nhân vật chính trong truyện, không phải là người theo đạo Phật, nhưng ông đã học và đã thực hành tinh thần đạo Phật qua hai nhân vật tu sĩ là sư Trúc Lâm và thầy Tiều. Tuy phương pháp tu hành khác nhau, thầy Tiều đi vào đời sống xô bồ đời thường và sư Trúc Lâm đi vào đời sống thanh tịnh ẩn dật, nhưng cả hai vị tu sĩ nầy đều thấy rõ được bản chất cá nhân để chọn pháp môn thích hợp cho mình và cho đời. Tôi có cảm tưởng như hai nhà sư xuất hiện giữa đời nầy khác nhau như Sao Hôm, Sao Mai; nhưng từ trong cội nguồn, họ là Sâm Thương, là một, là hai lữ hành cùng bước đi trên một con đường Trí Tuệ dẫn về phương giải thoát.
Về hình thức văn chương, Tu Bụi không phải là một tác phẩm tiểu thuyết (fiction) đúng nghĩa; mà cũng chẳng phải là một tác phẩm biên khảo hay lịch sử mang tính phi tiểu thuyết (non-fiction) thực sự. Nhiều đoạn văn đẹp và giàu vần điệu trôi chảy như thơ. Nhiều đoạn văn lý luận mang tính triết học và phân tích tâm lý rất sâu và trừu tượng. Cũng có những đoạn văn trình bầy sự kiện lịch sử, dữ kiện xã hội và khoa học có thật để làm bối cảnh cho dòng tưởng tượng trôi chảy.
Theo tôi, đây là một tác phẩm mang đậm nét tinh thần đạo Phật, lý giải được một số tín điều cũng như quan niệm triết học vẫn còn nằm sâu trong góc khuất tư tưởng. Với cảm nhận nghệ thuật riêng, tôi nhận định rằng, Tu Bụi vừa lôi cuốn, vừa khéo, vừa đẹp về cả ba phương diện văn học, triết học và đạo học. Đây là một đạo Phật gần với triết lý sống thật giữa đời hơn là chìm sâu trong thế giới tâm linh thuần tôn giáo.
Tuy nhiên, điểm nổi bật hơn cả là cái tâm của người viết. Đấy là tấm lòng hướng đến điều thiện. Tác giả Trần Kiêm Đoàn đã dùng một lối hành văn trôi chảy uyển chuyển, giàu hình tượng và ví von đầy cảm xúc. Ngay cả trong lý luận thì hình ảnh và cảm tính nghệ thuật cũng đã được vận dụng một cách tài hoa. Lắm lúc, sự lãng mạn tràn trề hay phẫn nộ bùng vỡ, nhưng vẫn giữ được vẻ tròn trịa, quý phái và cổ kính trong ý, trong từ và trong điệu văn.
Trong một e-mail từ Colombo gửi cho anh Trần Kiêm Đoàn trong ngày Tết năm nay, tôi có đùa rằng: “Nếu khi đọc Tu Bụi xong mà người ta nôn nóng muốn thử ‘tu bụi’ như thế nào và muốn gặp một ‘thiền sư tu bụi’ coi thử ra sao… thì tác phẩm mới được xem là thành công. Và biết đâu rồi sẽ có một dòng… Tu Bụi ra đời về sau nầy.”
Có muôn vàn thứ bụi và lớp bụi trong Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn: Bụi đời, bụi tham, bụi danh, bụi tình, bụi nghĩa… cấu kết thành bụi vong tình. Mỗi thứ bụi đều khoác bằng những lớp áo nhiều vẻ, nhiều mầu đầy cuốn hút.
Gần một nghìn năm trước, năm 1096, trong lễ trai tăng của hoàng thái hậu Phù Cảm Linh Nhân ở Giao Châu, thiền sư Trí Không đã nói đến ý nghĩa tu và giác ngộ rằng: “Tất cả mọi sinh linh đều có bản tính giác ngộ, chỉ vì bụi vong tình che lấp, trôi theo nghiệp báo mà lưu lạc mãi trong vòng ngũ thú. Phủi được hàng hàng lớp lớp bụi vong tình ấy thì chân tâm hiển hiện, Phật tính tỏ bày.”
Nếu chỉ phủi bụi bằng đôi tay và cây chổi của đời thường thì chỉ làm cho những lớp bụi có cơ dầy thêm. Bụi đời chỉ có thể rửa sạch bằng đôi mắt thương (từ nhãn) và bằng tấm lòng trung chính (chân tâm). Tác phẩm Tu Bụi đã thành công trong việc gợi ý “quét bụi trần gian” qua nghệ thuật kết cấu mang tính biểu tượng (symbolism) và tâm lý nhân vật được xây dựng mang tính cường điệu sáng tạo (creative exaggeration) gây ấn tượng sâu và đậm cho người đọc.
Tu bụi để phủi được lớp bụi vong tình.
Trong dòng suối cũ tâm linh, có một con nước vừa lên, rất mới.
Mahinda Phúc Nguyên[1]
Colombo, Tích Lan – mùa Xuân 2006
[1] Trong bài tựa bằng tiếng Việt của Bác sĩ Mahinda Phúc Nguyên, có một số lỗi chính tả và ngữ pháp do tác giả đã sống xa quê hương quá lâu, hơn 40 năm, không thường xuyên tiếp cận với ngôn ngữ Việt. Tôi đã xin phép được hiệu đính khi in lại thành “Lời Mở” trong tập sách nầy và cắt bớt những phần có liên quan đến trang web, nhưng không liên quan đến tập sách. Mọi sự hiệu đính và thêm bớt cho thích hợp với một Bài Tựa đều căn cứ theo tinh thần căn bản của bài viết nguyên văn bằng tiếng Anh nhan đề “DUSTING OFF THE ENEMIES WITHIN” của Mahinda Phuc Nguyen, Ph.D; MD. đăng trên mạng lưới Đạo Tràng Tân Tích Lan (NewCeylonSangha.org. Số January. 2006). Xin cảm ơn và đồng thời xin cáo lỗi với tác giả. TKĐ.
BẠT
Đọc “Tu Bụi”
của Trần Kiêm Đoàn
Tôi hân hạnh được làm một trong số vài độc giả đầu tiên của tác phẩm TU BỤI ngay sau khi nó vừa được đánh máy xong. Nhìn qua nhan đề tác phẩm, tự nhiên tôi nảy ra một ý nghĩ vui vui. “Tu” thì hiểu đại khái rồi. Tác giả Trần Kiêm Đoàn là người quán triệt triết lý và lịch sử Phật Giáo – trên hai địa hạt này ông có cái nhìn bao quát hơn nhiều vị trong hàng tăng lữ Phật Giáo – nên ông có đi thêm một bước tới chỗ “tu” thì cũng không làm ai ngạc nhiên cả. Nhưng còn “bụi” nghĩa là gì? Phải chăng Trần Kiêm Đoàn bỗng dưng đâm ra lập dị đến nỗi phải bỏ công viết sách xui giục đạo hữu và độc giả kéo nhau vào chốn lùm bụi mà tu hành? Sự suy đoán khôi hài này chưa kéo dài tới nửa phút thì tôi sực nhớ lại cái nghĩa thông thường mà tín đồ Phật Giáo ưa dành cho chữ bụi: bụi bậm trần gian. Nhưng phải đọc xong tác phẩm TU BỤI tôi mới kết hợp được “tu” với “bụi” qua hình ảnh những con người chấp nhận dấn thân, sẵn sàng lăn xả vào giữa bụi bậm trần gian mà không để cho nó bám chặt vào tâm của mình. Lao thân vào bụi, đồng thời phủi bụi khỏi tâm, đó chính là tu bụi vậy!
Thật là một sự trùng hợp lý thú. Cách đây mấy tháng, bốn tác giả Cao Thanh Tâm, Lưu Trần Nguyễn, Tôn Thất Sang và Ngô Viết Trọng đã cùng nhau “Khuấy Bụi Thời Gian”. Giờ đây tới phiên Trần Kiêm Đoàn phủi bụi thời gian! Bụi thời gian, bụi trần gian, cũng đều là bụi thôi, có người khuấy, phải có người phủi! Mới ghé mắt vào chỗ tựa đề, chưa tới đâu xa trong tác phẩm, thế mà đã phải suy nghĩ rồi! Suy nghĩ nhưng vẫn thoải mái, vui vẻ, không biết mệt nhọc chi cả.
Đã hết đâu! Nhìn xuống dưới một chút tôi chỉ thấy một khoảng trống không ở nơi thông thường dành cho phần giới thiệu thể loại của tác phẩm. Tôi đinh ninh đây là một sơ sót về kỹ thuật ấn loát chớ tác phẩm này nhất định phải là tiểu thuyết rồi. Có lý do khiến tôi tin như thế.
Tác giả Trần Kiêm Đoàn đã chứng tỏ tài năng qua nhiều thể loại tản văn như tùy bút, truyện ký, truyện ngắn, bút luận (triết lý, tôn giáo, văn nghệ, chính trị) v. v… Nếu chỉ nhìn văn phong bút pháp chớ không kể tới tư tưởng thì nhiều người thấy Trần Kiêm Đoàn đã kết hợp lại được nơi ông những gì có thể nói là tinh hoa của Nguyễn Tuân, Thạch Lam và Vũ Khắc Khoan. Tuy nhiên, dù mến mộ văn tài của Trần Kiêm Đoàn, độc giả vẫn trông chờ nơi ông một con người văn nghệ mới lạ chưa từng gặp, một tiểu thuyết gia. Bởi thế nên khi thấy tác phẩm nào của ông mà có độ dày, người đọc đương nhiên yên trí đó là tiểu thuyết. Phần tôi, khi đọc xong chương cuối của TU BỤI, tôi cảm thấy ngần ngại không biết nên xếp nó vào thể loại nào và tôi nghĩ ông Trần Kiêm Đoàn có lý do chính đáng để không công bố thể loại tác phẩm ở ngay phía dưới tựa đề. Khoảng một tháng sau ngày tôi tiếp nhận bản thảo TU BỤI, tuần báo Làng số 397 ngày 04/08/06 đăng tải bài Duyên Tu của Trần Kiêm Đoàn, phía dưới có ghi câu “Trích chương 27, truyện dài TU BỤI”. Thế là tác giả Trần Kiêm Đoàn đã chịu xếp loại cho tác phẩm của mình rồi. Nhưng tôi có cảm tưởng ông vẫn chưa được hoàn toàn thỏa mãn với lối xếp loại này, bởi lẽ truyện dài TU BỤI của ông không giống các truyện dài khác trong cấu trúc tổng quát. Thật vậy, theo quan niệm thông thường thì truyện dài hay tiểu thuyết cũng chỉ là hai từ khác nhau dùng để nói về một thể loại mà căn bản là một cốt truyện thuần nhất, liên tục, trong đó phần này liên hệ chặt chẽ với phần kia chớ không tách rời nhau được. Yếu tính trên đây hiện ra khá mờ nhạt trong tác phẩm TU BỤI. Lấy đại một chương nào đó của TU BỤI ra mà xem riêng, độc giả vẫn hiểu được như thường! Người đọc không biết trước và sau chương đó các nhân vật làm gì, nói gì, nghĩ gì, nhưng người đọc không hề cảm thấy bứt rứt nôn nóng muốn biết những chuyện đó như khi đọc một truyện dài thông thường. Thật là kỳ lạ! Độc giả bị lôi cuốn vào từng chương một đến nỗi không còn quan tâm tới cốt truyện tổng quát nữa. Trần Kiêm Đoàn đã lần lượt cho đăng báo một số chương trong TU BỤI, xem như đó là những truyện ngắn riêng biệt với nhau. Tôi không nghĩ ông muốn quảng cáo trước những tác phẩm của mình. Tôi tin đây là một trắc nghiệm khả dĩ giúp tác giả thẩm định lại độ biệt lập giữa các chương; qua kết quả trắc nghiệm, tác giả sẽ định tính chính xác hơn thể loại mà ông vừa sáng tạo ra. Có thể nói không quá lời rằng tác phẩm TU BỤI là một bộ trường thiên tiểu thuyết nhiều tập (roman à cycles) được cô đọng lại, mỗi chương tương đương với một tập. Đặc tính các bộ trường thiên tiểu thuyết [chẳng hạn như bộ Đi Tìm Thời Gian Đã Mất (À La Recherche Du Temps Perdu) của Marcel Proust hay bộ Xóm Cầu Mới của Nhất Linh] là các tập có thể được xem riêng rẽ với nhau bởi lẽ chúng có chung nhau các nhân vật chính nhưng lại được xây dựng trên những cốt truyện khác nhau. Phải chăng Trần Kiêm Đoàn tạo thể loại mới để dùng nó làm bàn đạp nhảy vọt sang trường thiên tiểu thuyết? Nhìn cấu trúc tác phẩm một cách bao quát thì thấy như thế, đào sâu vào từng chương một thì lại gặp nhiều kỳ thú lạ lùng hơn nữa (sẽ đề cập tới sau), khiến tôi không ngăn được ước ao tác giả không xếp loại cho tác phẩm của mình mà dành công việc này cho từng độc giả một.
Bây giờ xin thử nhìn vào cốt lõi của vấn đề là giá trị của tác phẩm. Như đã nói trên, có thể độc giả không tha thiết với sự liên tục của cốt truyện, thái độ này cho thấy sức cuốn hút của tác phẩm không đến từ cốt truyện. Cũng phải thôi! Vài ba nhân vật tình cờ gặp nhau, sống với nhau trong những hoàn cảnh không có chi éo le lắm, rồi tất cả lần lượt rời bỏ trần thế, ngoại trừ một vài người không ai biết đi đâu, không ai biết sẽ làm gì… Câu chuyện đòi hỏi ít động tác, lại diễn ra trầm trầm. Đã vậy tác giả không nỗ lực phân tích tâm lý nhân vật đến tận cùng. Có vẻ như ông muốn tạo ra ấn tượng về sự nhẹ nhàng trống không trong nội tâm của họ. Các yếu tố dùng làm lực thôi tống cho một truyện dài thông thường đã vắng bóng ở TU BỤI. Ấy thế mà độc giả vẫn cứ muốn đọc tiếp tiếp theo mãi. Vậy cái ma lực nào đã thúc đẩy độc giả đi tới tận cùng của tác phẩm? Nhìn đi nhìn lại, tôi không tìm thấy ma lực nào khác ngoài cái ma lực toát ra từ những suy tư triết lý nằm rải rác khắp nơi trong tác phẩm không cần theo thứ tự nào cả. Độc giả muốn đọc tiếp theo mãi không phải để biết câu chuyện diễn biến và kết thúc ra sao, mà để mong gặp được một vài chân lý thấm thía đang chờ đợi họ ở một nơi nào đó trong tác phẩm. Trần Kiêm Đoàn đã đến với độc giả Việt Nam như Jean Paul Sartre và Albert Camus đã đến với độc giả Pháp hơn nửa thế kỷ trước đây!
Trong TU BỤI, các diễn biến, các nhân vật thật ra chỉ còn là những cái cớ, cái dịp để giúp độc giả tiếp nhận suy tư triết lý. Chẳng hạn như trận cờ quyết đấu trên sông Hương giữa Trí Hải và Hàn Kỳ Vương được xây dựng để chuyển đạt tới độc giả những suy tư về định kiến, về những quan hệ giữa tâm tư và hành động… Tương tự, trận dịch hạch đang tàn phá kinh thành cũng tạo điều kiện để xét lại ý nghĩa cuộc sống, để nhìn lại chuyện nhân, chuyện quả… (Đọc chương Tu Giữa Bụi Trần nói về chuyện dịch hạch không thể không liên tưởng tới truyện dài Dịch Hạch (La Peste, 1947) của Albert Camus, mặc dù nếp suy tư của hai tác giả Pháp, Việt có khác nhau).
Nhân tiện xin đề cập tới bản chất dòng tư tưởng mà Trần Kiêm Đoàn đã cho tuôn chảy qua TU BỤI. Ở phần đầu tác phẩm, ông suy nghĩ mông lung về con người, về cuộc đời. Tới phần cuối, ông chuyển hướng rõ rệt qua phía giáo lý Phật Giáo. Độc giả thấy ông tha thiết muốn trở về với những gì là tinh túy nhất của Phật Giáo thời nguyên thủy, thời chưa bị tha hóa biến chất, đồng thời cũng muốn thích ứng đạo mình vào đời sống hiện tại trên thế giới. Ở phần đầu, TU BỤI là một tiểu luận triết lý được tiểu thuyết hóa, ở phần cuối nó là một giảng luận Phật học cũng được tiểu thuyết hóa! Thêm một lý do nữa để không áp đặt quá sớm tên thể loại của tác phẩm này. Dành công việc đó cho độc giả là ổn nhất…
Viết tới đây tự nhiên tôi sực nhớ lại một chuyện vui vui về Tu Bụi mà tôi đã sống qua: dùng cảm quan để thưởng lãm và dùng lý luận để phê phán nhiều khi dẫn tới kết quả trái ngược nhau. Chẳng là sau khi đọc xong quyển TU BỤI, tôi cố nặn óc tìm xem (để giải trí vậy thôi) tác giả có để lộ sơ hở nào không khi viết quyển này. Cố tìm thì phải ra thôi. Và ra được bốn điểm sau đây:
Trước nhất, câu chuyện của TU BỤI xảy ra khoảng thời gian mấy mươi năm từ khi Gia Long thống nhất sơn hà tới sau khi Minh Mạng lên ngôi, nhưng ngôn ngữ của các nhân vật lại lắm khi là ngôn ngữ của triết gia, chính khách, nghiên cứu gia thời cuối thế kỷ hai mươi và đầu thế kỷ hai mươi mốt.
Thứ hai, hình ảnh một vài nhân vật đã mang nét hư cấu đậm hơn hẳn so với các nhân vật khác. Chẳng hạn như Ba Gấm trước là cung nữ, sau là phu nhân của quan Tổng Chánh Chưởng Thân Binh. Trang phục, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, tư tưởng v. v… tất cả nơi Ba Gấm đều thắm đượm phong vị Tây phương khiến tôi hơi hoài nghi về khả năng hiện hữu của một người mệnh phụ phu nhân như vậy vào thời Minh Mạng, mặc dù tác giả có giải thích là nhờ thường xuyên buôn bán tiếp xúc với người ngoại quốc nên Ba Gấm mới có được cái phong cách đó.
Thứ ba, một số hiện tượng mô tả trong tác phẩm e không hề được thực sự trông thấy trong lịch sử. Điển hình là chuyện hai chị em ruột cùng cư ngụ tại kinh thành nhưng lại “không thể nhìn được mặt nhau” chỉ vì một người là tín đồ của Phật Giáo của Bắc Tông (được triều đình nhìn nhận và nâng đỡ), còn người kia là tín đồ của Phật Giáo Nam Tông (tự cho rằng mình bị triều đình “cấm đoán hành đạo”). Thật ra hầu hết dân Việt Nam đều theo Đại Thừa Bắc Tông, chỉ riêng ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng của miền Tây Nam Việt mới thấy có sự hiện hữu của phái Tiểu Thừa Nam Tông mà tất cả tín đồ đều có gốc gác là người Miên. Tín đồ Đại Thừa và Tiểu Thừa lại không thấy quyết liệt chống đối nhau bao giờ cả. Có lẽ tác giả Trần Kiêm Đoàn bị ám ảnh bởi sự phân hóa của Phật Giáo ngày nay tại Việt Nam nên ông chuyển vị nó vào lịch sử, rồi cường điệu hóa thêm một chút để có lý do nỗ lực đi tìm cho nó một giải pháp thỏa đáng.
Thứ tư, các nhân vật đều thông minh, sâu sắc, kiến thức rộng rãi, thường xuyên ở tư thế suy tư và xét lại. Cứ soi mói nhìn kỹ một chút, người ta sẽ thấy thấp thoáng ngoài sau mỗi người trong họ bóng dáng của tác giả Trần Kiêm Đoàn! Họ vui sướng hay ưu tư phiền muộn, họ đàm đạo hay tranh luận với nhau, tất cả chỉ là hiện tượng biểu kiến. Thực chất chính là ông Trần Kiêm Đoàn đang vui sướng, đang phiền muộn, đang suy tư, đang nói với chính mình!
Mới hí hửng được mấy phút về những điều mình khám phá ra thì tôi lại cảm thấy buồn cười về cái vô duyên của chính mình. Phải mà, khi đang đọc TU BỤI tôi đâu có nghĩ ngợi chi li về các tiểu tiết trên đây. Tôi cũng đâu còn nhớ tới Trí Hải, Phạm Xảo, Thầy Tiều… và cả Trần Kiêm Đoàn nữa, tôi cũng quên luôn! Tôi cứ tưởng tượng như thể tôi đang nói với chính tôi chớ không phải họ đang nói với nhau. Y như trường hợp một người nghe đàn, chỉ lắng nghe tiếng đàn chớ không tự hỏi ai là người đang đánh đàn, ai là người đã soạn ra bản nhạc, họ làm ăn sinh sống ra sao. Chỉ sau khi tiếng đàn chấm dứt thì cá nhân người đánh đàn và người soạn nhạc mới có thể được quan tâm tới. Tương tự như vậy, khi đọc truyện võ hiệp thấy một kiếm khách phóng mình bay lên nóc nhà đuổi theo địch thủ, có ai phì cười bảo rằng tác giả phịa chuyện nói dóc đâu? Người ta cứ tưởng tượng mình chính là tay kiếm khách đó chớ!
Thật ra khi viết lách, không tác giả nào tránh khỏi sơ sót, tránh khỏi cường điệu cả. Nhưng lắm lúc phải dùng tinh thần “chẻ sợi tóc ra làm tư” mà nhìn thì mới thấy được các khuyết điểm này. Phê bình gia có thể làm việc đó với tác giả, nhưng độc giả thì không. Độc giả (bao gồm luôn cả các phê bình gia đang thưởng thức tác phẩm) luôn luôn thông cảm và lắm khi đồng lõa với tác giả nữa (trong việc tưởng tượng ra chuyện hư cấu).
Một tác phẩm văn nghệ được đánh giá qua dư âm mà nó để lại nơi lòng người. Thông thường dư âm đó được tạo nên bằng sự mô tả cuộc đời một cách tinh tế. Trong TU BỤI, Trần Kiêm Đoàn không mô tả cuộc đời, ông chỉ mượn cuộc đời để chuyển đạt nhân sinh quan và vũ trụ quan của ông mà thôi. Nhưng ông vẫn tạo được dư âm trong lòng độc giả bằng những suy tư về kiếp người. Sáu mươi bốn năm trước đây, văn triết gia Albert Camus cũng đã chuyển đạt suy tư triết lý của mình đến độc giả Pháp qua tiểu thuyết Người Xa Lạ (L’Etranger, 1942). Lúc đầu, tác phẩm này bị độc giả tiếp nhận trong thờ ơ lạnh nhạt vì họ chưa hiểu được Camus, thời đó chỉ là một tác giả mới, chưa có tên tuổi. Với tác phẩm TU BỤI, Trần Kiêm Đoàn không lâm vào hoàn cảnh của Albert Camus bởi lẽ ông đã lỡ nổi tiếng rồi. Nhưng ông cũng không hưởng được niềm vui sướng, nỗi xúc động của một nhà văn lúc đầu bị xem thường, về sau lại được hoan nghênh!
Khi TU BỤI ra mắt độc giả, dư luận ắt sẽ thắc mắc về chuyện ông Trần Kiêm Đoàn sẽ làm gì trong tương lai? Ông sẽ đi rao giảng và thực hành cái giáo lý Phật Giáo canh tân mà ông vừa sáng tạo ra? Ông còn say sưa giúp đỡ các chiến hữu tư tưởng của ông nữa hay không, các chiến hữu vốn dĩ đã và đang đặt trọn sự tin cậy của họ nơi ông? Hay ông lại tiếp tục suy tư mông lung như một người trí thức suốt đời đi tìm chân lý mà chưa bao giờ gặp được chân lý? Thời gian sẽ giải đáp câu hỏi đó.
Tống Diên
California, tháng 8 năm 2006
Vài cảm nghĩ viết vội về truyện dài
“Tu Bụi” của Trần Kiêm Đoàn
Tôi có duyên được đọc truyện dài Tu Bụi của Trần Kiêm Đoàn ở dạng bản thảo chờ in. Từ khi “download file” được cuốn truyện do cô Đặng Lệ Khánh chuyển qua hệ thống điện thư vi tính, tôi miệt mài đọc cho hết cuốn truyện. Nói chung là một truyện dài thú vị từ đầu tới cuối. Truyện kể về một thời điểm cụ thể (đời vua Gia Long và Minh Mạng) về những con người cụ thể; tuy hư cấu nhưng lại gắn với những nhân vật có thật nên trở thành như thật (giống như Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh Ký của Kim Dung vậy. )
Truyện viết theo lối viết chương hồi phù hợp với bối cảnh lịch sử giống như Hoàng Lê Nhất Thống Chí, hay loại truyện tàu Tam Quốc Chí, Thủy Hử, truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Ở đây có một điều khác xa với truyện chương hồi nói trên là mỗi chương có một tiêu đề ngắn gọn hầu hết là những vấn đề liên quan đến Tu, đến Thiền và những cõi miền triết lý đạo Phật. Có 28 chương thì có 28 tiêu đề dẫn người đọc dần dần đến một chương cốt yếu của truyện dài: “Tu giữa bụi trần” hay nói một cách gẫy gọn hơn, theo ý tác giả, là Tu Bụi.
Mặc dầu tiêu đề của mỗi chương là các vấn đề liên quan đến Đạo Phật nhưng nội dung của truyện lại rất hấp dẫn với các tình tiết có khi nhẹ nhàng, có khi đầy “kịch tính” qua sự chuyển biến bất ngờ mà người đọc không thể đoán ra được kết cục như lối viết truyện trinh thám. Như trong hai chương Nhập Cuộc và Một Cuộc Cờ. Sự xuất hiện rồi biến mất; rồi xuất hiện lại của nhân vật Hàn Kỳ Vương thật là sự phiêu du thú vị đầy tưởng tượng và suy tưởng. Rồi trong chương 26, Bờ Bên Kia, với trận đấu sinh tử giữa Phạm Xảo và Trần Minh là một tuyệt xảo của lối dẫn truyện tài tình và đưa diễn biến câu chuyện đến đỉnh điểm, rồi kết thúc bằng cái chết của Phạm xảo rất nhân văn. Những diễn tiến tình huống “kịch” như thế lại diễn ra không kịch một tí nào như các chương Nợ Ân Tình, Lửa Tình. Sự xuất hiện của Ba Gấm trong đời của Trí Hải qua một tình huống lạ lùng đã được dẫn dắt với một bút pháp đầy chất thơ.
Sự xuất hiện của các vị sư Trúc Lâm từ đầu câu chuyện; và sự xuất hiện của Thầy Tiều giữa truyện, rồi đi suốt câu chuyện đã ghi ấn tượng vừa sâu, vừa đậm về đạo lý và triết lý. Ở những thời điểm khó khăn của Trí Hải, tư tưởng hóa giải của đạo Phật đã giúp giải quyết các gút thắt trong đời sống cũng như giúp cởi trói dần dần cho Trí Hải thoát ra khỏi cái áo đời chật chội đầy dính mắc và chấp trước. Trí Hải, vô hình chung, tiến dần đến với tự tánh chân như bằng cái tâm rỗng lặng. Từ đó, nhận ra Tánh không để trở lại đời thường hành Đạo. Diễn tiến tâm lý nhân vật tiệm tiến theo thời gian và sự việc rất tự nhiên như nó vốn có
Cuối câu chuyện, độc giả chứng kiến 3 cái chết:
Cái chết đầy chất thơ bi tráng của Phạm Xảo vừa như một lời sám hối muộn màng, vừa là việc đi trọn con đường của một vị tướng vào sinh ra tử nguyện lấy cái chết để nuôi dưỡng cái tâm của một cuộc sống mới.
Những cái chết xót xa đầy lý tưởng “vì nghĩa quên mình” của Ba Gấm và Thầy Tiều là biểu tượng làm dấu nhấn cho việc Tu Bụi giữa đời, đem cái Tâm Giác Ngộ để xả kỷ hành thiện theo lối hành trì bố thí Ba La mật mới cao cả làm sao.
Độc giả còn bắt gặp những đoạn văn nghiên cứu sâu sắc đậm chất tri kiến bác học mới lạ viết về nghệ thuật cờ tướng, về trà đạo, về cây kiểng đượm mùi thiền, về thư pháp như một dòng chảy tài hoa, về nghệ thuật hát bội và cầm chầu như nỗi đam mê đầy cảm tính nghệ thuật, về đời sống cung nữ và học nô bi hài trong nội cung triều Nguyễn, về những lễ nghi triều đình đã bị phôi pha quên lãng với thời gian. Tác giả mượn lời của các nhà sư để viết ra những lý giải đầy tính thuyết phục về Triết lý đạo Phật, những kiến giải minh triết về Thiền tập, phá chấp và tánh Không.
Nói chung, truyện dài Tu Bụi có nhiều điều hấp dẫn cả về cốt truyện, về nhân vật và triết lý Phật giáo. Tất cả hòa quyện nhau nhuần nhuyễn dưới ngòi bút chín tới của Trần Kiêm Đoàn.
Lê Duy Đoàn
Việt Nam, tháng 6 năm 2006