Terry Lee: Hư không hữu tận, Ngã nguyện vô cùng

Trong di chúc của Thầy Tuệ Sỹ, bỏ qua phần nói về cách Thầy muốn tổ chức tang lễ đơn giản, Thầy để lại 8 chữ:

“Hư không hữu tận, Ngã nguyện vô cùng”

8 chữ này là trích từ bài Sám Thập phương (cũng gọi là Sám Quy mạng) mà bất cứ ai có tụng hay đọc kinh Phật đều biết:

“Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng
Tình dữ vô tình
Đồng viên chủng trí”

Hư không thì có giới hạn,
Nhưng nguyện của tôi thì vô cùng
Cầu cho các loài hữu tình và vô tình
Tất cả đều thành chính giác.

8 chữ Thầy để lại là “di chúc thứ hai” của Thầy đó. Di chúc này chắc chắn các bạn đồng ý với tôi là nó quan trọng hơn những giòng chữ Thầy dặn dò cách thức tổ chức tang lễ.

Cái “di chúc thứ hai” này chỉ có 8 chữ, nhưng thực ra phần quan trọng là 4 chữ: Ngã Nguyện Vô Cùng. Thầy có nguyện gì? Thầy không nói.

Cũng vậy, hơn 2500 năm trước, Phật tập hợp 1250 đệ tử lại để thuyết pháp. Tuy nhiên, thay vì nói, Phật chỉ giơ một bông hoa sen trước mặt mà không nói một lời. Mọi người trong hội chúng đều bối rối, nhưng một người trong số họ, Ngài Ca Diếp, hiểu được ý nghĩa của Đức Phật và mỉm cười. Đức Phật nói:

“Ta có Chánh pháp Nhãn tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Thực tướng Vô tướng, Vi diệu Pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền. Pháp này ta phó chúc cho Ca Diếp”.

Thầy cũng không nói Thầy có nguyện gì mà vô cùng, vô tận. Tôi quyết tâm đi tìm coi Thầy có nguyện gì, để đọc được cái bí mật Thầy giấu trong đó? Nhưng phải bắt đầu từ đâu?

Trước hết, tôi muốn dịch 8 chữ di chúc này của Thầy sang tiếng Anh.

Nguyên văn chữ Hán là 虛空有盡,我願無窮. Hư không (虛空) là cõi vô định, hư = hư ảo, không = không gian. Tiếng Anh là Void. Như vậy có nên dịch là The Void is limited; my vows are infinite hay không?

Tôi nghĩ là không nên. Vì Void là cái gì viển vông, xa vời, không có thật. Khi tôi chẳng biết nó là cái gì thì bạn nói nó là vô hạn hay hữu hạn, tôi cũng không biết là đúng hay sai. Vì không cảm thấy nó gần gũi với mình, lời nguyện mất đi sự cảm ứng. Tôi là giáo sư Toán và Vật lý trong 47 năm, cho tới khi tôi về hưu 3 năm trước, nên tôi tin vào hiệu quả của cảm ứng (cảm ứng, nói 1 cách đơn giản, là sự đồng cảm, giao thoa giữa 2 đối tượng). Ngày 12 tháng 4 năm 1831, một đoàn lính Anh diễn hành đi đồng bộ qua cầu treo Broughton, khiến cây cầu cảm ứng với các nhịp bước đều đó nên nó cộng hưởng các độ rung nhỏ bé của bước chân của mỗi binh sĩ lại đến khi nó lớn quá thì cây cầu sụp đổ.

Có câu chuyện về một tiền thân của Phật, được kể trong Phật Quang Đại Từ điển, 8 tập, dầy gần 10 ngàn trang, do Hòa Thượng Quảng Độ dịch.

Vua Shibi là một vị vua ở Ấn Độ cổ. Vua rất tin vào Phật Pháp. Để kiểm tra ý chí của Vua Shibi, Thần minh Đế Thích và Bì Thủ Yết Ma lần lượt hóa thành đại bàng và chim bồ câu để khảo nghiệm Vua Shibi. Khi đó, đại bàng đang đuổi theo sát con chim bồ câu và quyết tâm ăn thịt nó, chim bồ câu không còn cách nào khác là phải chạy trốn đến chỗ Vua Shibi để được giúp đỡ. Vua Shibi, người có nguyện ý cứu độ chúng sinh, muốn bảo vệ chim bồ câu, nhưng đại bàng nói với ông rằng nó sẽ chết đói nếu không ăn được thịt chim bồ câu. Để cứu đại bàng, Vua Shibi tỏ ý muốn xẻ thịt mình để nuôi đại bàng. Không ngờ, con đại bàng cũng yêu cầu miếng thịt nó cắt ra phải nặng như chim bồ câu. Vì vậy, Vua Shibi không còn cách nào khác là xẻ thịt mình và đem cho người ta cân.

Tuy nhiên, Vua Shibi xẻ thịt đến tận cùng mà cân vẫn không bằng bồ câu, Vua Shibi sau đó là ngồi lên cân. Hành động và tâm niệm của Vua Shibi đã khiến trời đất cảm động.

(Sau đó Đế Thích đã trở lại diện mạo thật của mình và sử dụng sức mạnh thần thánh để khôi phục lại cơ thể của Vua Shibi.)

Tôi để câu “Sau đó Đế Thích đã trở lại…” trong ngoặc đơn vì phần đó đối với tôi không cần thiết, dù truyện nào cũng có phần đó, kiểu “live happily ever after” trong ngụ ngôn và phim ảnh. Ở đây, tôi chỉ muốn nói lời nguyện của vua có chân thành mới cảm ứng đến trời đất, nên tôi không thích dùng chữ Void để dịch chữ “Hư không” (dù nó đúng), chỉ vì nó quá xa lạ.

Theo tôi, chữ hư không ở đây có nghĩa là một cái gì to lớn, mênh mông mà chúng ta nghĩ là nó vô tận, nhưng thực sự là nó hữu tận, để so sánh với cái nguyện vô cùng, vô tận của người đang khấn nguyện. Tôi nghĩ đến chữ world (thế giới), vì thế giới nó gần gũi với mình hơn hư không, nó cũng mênh mông, rộng lớn, nhất là nếu bạn nghĩ đến các cõi trời, thần, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, tam thiên đại thiên thế giới mà kinh Phật hay nhắc tới thì nó lớn quá.

Còn nói về khoa học thì bạn có biết nếu đi được với tốc độ ánh sáng (300 ngàn km/giây) thì bạn mất 1 giây để tới mặt trăng, 8 phút để tới mặt trời, 20 ngàn năm để ra khỏi cõi Thiên hà Milky Way mà chúng ta đang ở. Mà chữ thế giới thì nó bao gồm luôn cả các thiên hà ngoài thiên hà Milky Way. Thiên hà xa nhất mới được khám phá thấy mang tên HD1, cách xa trái đất 13.5 tỷ năm ánh sáng, và khoa học cho biết “biên giới hiện thời” của thế giới chúng ta cách chúng ta 46.5 tỷ năm ánh sáng (1 năm ánh sáng = light year, khoảng cách ánh sáng phải đi trọn năm mới tới và vận tốc ánh sáng là 300,000,000 mét/giây).

Như vậy, rõ ràng thế giới quá mênh mông vô tận, nhưng con mắt Phật thì thấy nó hữu hạn. Tôi dông dài như vậy để các bạn thấy khi tôi thay chữ hư không bằng chữ thế giới, bạn mới thấy nó hợp lý hơn rất nhiều.

The world has end, my vows are infinite (Thế giới hữu hạn, nguyện tôi vô cùng).

Không biết có ổn không? Tôi tạm dùng nó trong thời gian chờ đợi ai có thể giúp tôi dịch hay hơn.

2) Bước thứ hai: Tìm nguyện của Thầy trong kinh sách và khảo luận Thầy đã soạn và dịch.

Số lượng kinh sách Thầy viết, soạn và dịch thì đồ sộ quá, nhưng tôi phát nguyện không bỏ cuộc. May mắn quá, mới tìm trong vài ngày thì tôi đọc thấy trong cuốn Thắng Man Giảng Luận mà Thầy đã dịch và giảng, Thắng Man Phu Nhân có 3 đại nguyện.

Đó là:

1) Sẽ giúp cho chúng sinh được đời đời an ổn.
2) Sẽ không mệt mỏi giảng Pháp cho chúng sinh.
3) Sẽ xả bỏ thân mạng để hộ trì Chính pháp.

Đại nguyện thứ hai: Cũng như Thắng Man Phu Nhân, Thầy không mệt mỏi giảng Pháp, dịch kinh, dù ngụy quyền Cộng sản tìm đủ cách làm khó dễ, và dù bác sĩ cố ngăn cản khi Thầy làm việc quá sức. (Tôi dùng chữ ngụy quyền CS vì chính quyền này không có do dân bầu lê , chứ chưa nói tới các tàn ác của họ đối với dân tộc và tổ quốc)

Đại nguyện thứ ba: Thầy chấp nhận bị xử tử hình, kiên quyết bảo vệ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để hộ trì Chánh Pháp, không để nó gia nhập vào cái gọi là Giáo hội Phật Giáo Việt Nam (dưới quyền kiểm soát Mặt Trận Tổ Quốc), thực chất chỉ là cái bình phong của lũ giả sư, giả ni, ma vương Cộng sản. So với 3 đại nguyện này của Thắng Man Phu Nhân, thì đời Thầy chưa hoàn thành được đại nguyện đầu. Chúng sinh nước Việt còn lầm than dưới chế độ Cộng sản không có nhân tính. Thường thường, chuyện gì mình không làm được ở kiếp này, mình sẽ nguyện làm được ở kiếp sau. Vì thế, tôi tin đây cũng là 3 đại nguyện của Thầy.

3) Với giả thuyết (hypothesis) đó, tôi đi tìm chứng minh (proof) trong thơ Thầy. Và tôi kinh ngạc khi thấy rất nhiều bài thơ của Thầy chứa đựng những ao ước đó. Thầy giấu trong thơ tất cả ao ước của Thầy, mà tôi xin gọi là những “đại nguyện” của Thầy. Không biết bạn đã đọc thấy một “đại nguyện” nào của Thầy trong các bài thơ Thầy đã viết không?

Tôi đã dịch và giải thích ý Thầy và gởi đăng nhiều bài thơ của Thầy. Xin nhắc lại hai bài tôi đã dịch và giải thích, để giúp bạn tìm. Bài Mộng Ngày, vì chữ Tổ quốc được Thầy viết rõ ràng trong thơ, và bài số 8 trong tập Thiên lý độc hành vì Thầy viết rõ giấc mơ của Thầy trong đó.

1) Trong bài Mộng ngày

Kiến bò quanh nhọc nhằn kiếm sống,
Ta trên lưng món nợ ân tình.
Cũng định mệnh lạc loài Tổ quốc,
Cũng tình chung tơ nắng mong manh.

Tôi giải thích (phần 4 câu này thôi):

Thầy cho biết thầy đang mang món nợ trên lưng thầy. Đó là nợ Tổ quốc, một trong tứ ân của đạo Phật. Ý nghĩa của bài thơ ở đoạn này là thầy cưỡi trên lưng con kiến, và thầy đeo trên lưng thầy món nợ Tổ quốc. Chữ “tổ quốc” được lập đi lập lại ở 2 câu kế tiếp: “Cũng định mệnh lạc loài Tổ quốc” có nghĩa là thầy cũng lạc loài mất nước, như bầy kiến kia mất tổ. “Cũng tình chung tơ nắng mong manh” có nghĩa là thầy cũng chung tình với đất nước của thầy như bầy kiến kia yêu tổ.

Tôi dịch:

Here are some ants running around, searching for their homelands.
With a heavy debt of love that I carry on my back,
I also find myself homeless, sharing the same fate with the ants,
And the love for our homelands, which is as fragile as sunlight threads.

2) Bài số 8, tập Thiên lý độc hành.

Khắp phố thị ngày xưa ta ruổi ngựa
Ngang qua đây ma quỷ khóc thành bầy
Lên hay xuống mắt mù theo nước lũ
Dẫm bàn chân lên cát sỏi cùng trôi

Rồi ngã xuống nghe suối tràn ngập máu
Thân là thân cỏ lá gập ghềnh xuôi
Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu
Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi

Tôi giải thích:

Thầy ơi, chúng con cũng mong được thấy: Lũ ma quỷ khóc thành bầy, thân xác bị kéo trôi vào cơn mưa lũ. Rồi khi cơn mưa dứt, ánh trăng hiện ra chiếu lên đồi cỏ như một tấm chiếu để Thầy đánh một giấc ngủ dài cả ngàn năm, và khi Thầy thức dậy thì hoa trắng đang nở rạng rỡ trên đồi cỏ đó.

Tôi dịch:

On horseback, I had gone across this city before,
Witnessing gangs of blind crying ghosts and demons,
Who were moving up and down in the flood,
While stepping on moving pebbles and sand.

Then they fell down, their blood inundated the stream,
Their bodies, looking like herbaceous plants, unevenly drifted along.
Waiting for the rain to stop, I will roll the moonlight out for my sleeping mat.
A thousand years later, when I wake up, white flowers will blossom on this hill.

Chú thích thêm về cách dịch của tôi:

Có bạn chỉ trích tôi không dịch đúng nguyên tác, thí dụ như ở câu cuối bài này, câu thơ của Thầy đâu có chữ “khi ta thức dậy” đâu mà tôi thêm vào “when I wake up”.

Mỗi người có 1 cách dịch. Cách dịch của tôi là làm sao cho bạn hiểu được bài thơ, sau đó là hiểu được lòng thầy, vì thế có rất nhiều bài tôi phải suy nghĩ cả ngày, có khi cả mấy ngày để tìm cho ra ý Thầy trong bài đó. Riêng ở bài này, nếu Thầy không thức dậy, sao Thầy biết hoa trắng trổ trên đồi?

Hai câu thơ của thầy:

Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu
Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi

đâu có nói thầy sẽ trải trăng làm chiếu để ngủ một giấc cả ngàn năm, rồi thức dậy khi đất nước có được dân chủ, tự do, để xem hoa trắng trổ trên đồi. Nhưng tôi mong bạn, cũng giống như tôi, đọc thấy điều ao ước đó của Thầy trong hai câu thơ này.

Còn ở bài Mộng Ngày, câu “kiến bò quanh nhọc nhằn kiếm sống” mà sao tôi lại dịch là “Here are some ants running around, searching for their homelands”, tức là kiến bò quanh đi kiếm tổ. Lý do là vì ở câu thứ ba, “Cũng định mệnh lạc loài Tổ quốc” tức là con kiến phải bị lạc loài tổ thì thầy mới, cũng như nó, lạc loài tổ quốc. Chữ “nhọc nhằn kiếm sống” không hẳn chỉ là nhọc nhằn kiếm miếng ăn. Bản thân Thầy khi còn sống cũng “nhọc nhằn kiếm sống” vậy. Nếu ở câu thứ nhất, con kiến chỉ đi kiếm ăn thì đâu có lý do gì để thầy so sánh với nó. Như đã nói ở trên, tôi chỉ dịch sau khi hiểu ý bài thơ và hiểu lòng thầy.

Cho tôi ngưng phần trích thơ ở đây, dù Thầy còn để lại “đại nguyện” trong rất nhiều bài thơ của Thầy. Nếu bạn không muốn tìm, thì mời bạn hãy đọc cuốn sách tôi giải và dịch thơ Thầy mà tôi đề cập dưới đây.

Cuốn sách tôi dịch thơ của Thầy đã in xong, và bạn có thể mua trên Amazon ngay từ bây giờ. Trong khoảng 1 tháng nữa, hy vọng nó sẽ được bán ở các tiệm sách trên thế giới, kể cả Walmart. Tổng cộng gần 140 bài thơ trong tổng số chưa tới 150 bài thơ Thầy đã viết, đa số tôi đều có 2 phần dịch và giải, chỉ một số rất ít bài mà lời thơ đã rõ nghĩa thì tôi chỉ dịch mà không có giải.

Tựa đề cuốn sách là Dreams of Tuệ Sỹ – Giấc mơ Tuệ Sỹ. Bạn có thể kiếm nó trên Amazon bằng cách vào Amazon, rồi đánh máy tên cuốn sách Dreams of Tuệ Sỹ hay Giấc mơ Tuệ Sỹ lên đó (nhớ bỏ dấu, chỉ đánh Tue Sy, sợ nó không biết).

Nếu bạn có thể ủng hộ tôi bây giờ thì mua sách trên Amazon. Nếu bạn muốn đọc mà không muốn mua, thì vui lòng chờ thêm một thời gian (hiện tôi chưa biết bao lâu), tôi sẽ cho download free.

Trong phần giới thiệu cuốn sách này cho độc giả nói tiếng Anh, tôi viết:

This bilingual book includes most of the late Venerable Tue Sy”s poems, with explanations and English translations by Terry Lee.

Tue Sy was a Buddhist monk who was sentenced to death by the Vietnamese Communist government, then reduced to 20 years under international pressure, due to his non-violent support of his Church. After 14 years, 4 months and 20 days, they persuaded him to sign a plea for pardon, but he bravely announced that they had no rights to judge him, therefore, no rights to pardon him. They were obliged to release him after his 10-day total hunger strike.

His poetry does not contain hatred, only compassion, love and Zen concepts. It is interesting to note that he did not use the Zen language in his poems. Instead, he used the language of the lovers, an insect, or a mustard seed, as in the following examples:

1) Carrying a dream in my heart, I wander, wondering,
Where can I find the moon to pick it down for you?

2) The cicadas” melody bounces back, rippling on cue notes,
The tears of their summer mourning are drying up the ocean.

3) A thousand years ago, I went up those mountains,
A thousand years later, I went down these stairs.

The mustard seed”s eyes are wide opened:
“Where are your footprints?”

He passed away on November 24, 2023. In his will, he left 8 words:
“The world has end; my vows are infinite.”

But he did not state what his vows were.

Likewise, more than 2,500 years ago, the Buddha gathered his disciples together for a talk on Dharma. Instead of speaking, however, the Buddha simply held up a lotus flower in front of him without saying a word. Everyone in the assembly was baffled, but one of them, Mahakasyapa, suddenly understood the Buddha”s meaning and smiled. The Buddha said,

“I possess the true Dharma eye, the marvelous mind of Nirvāṇa, the true form of the formless, the subtle Dharma gate that does not rest on words or letters but is a special transmission outside of the scriptures. This I entrust to Mahakasyapa”.

I believe Venerable Tue Sy confided his vows in his literature.

In the book Śrīmālādevī Siṃhanāda Sūtra that Venerable Tue Sy translated and explained, he cited Mrs. Śrīmālā”s 3 great wishes:

1) May I bring peace to innumerable and unlimited living beings.
2) May I explain the True Dharma, for the sake of all living beings without wearying.
3) May I abandon body, life, and wealth to uphold the True Dharma.

I read from his poetry that these 3 great vows were also his vows, even though he had not accomplished the first vow.

I challenge you to find his vows in his poetry.

Hiển thị thêm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Back to top button