Thích Nhuận Giác: Những điềm lành khi Đức Phật đản sanh trong A-tì-đạt-ma Thi thiết túc luận

A. GIỚI THIỆU
Sự kiện đức Phật đản sanh là một trong những sự kiện quan trọng trong lịch sử Phật giáo và văn hóa Ấn Độ cổ đại. Theo truyền thống, đức Phật Thích-ca Mâu-ni (Siddhartha Gautama) đản sanh vào khoảng năm 624 trước Tây lịch (theo Phật giáo Nam truyền) hoặc năm 563 trước Tây lịch (theo Phật giáo Bắc truyền) tại vườn Lâm-tì-ni (Lumbini), nay thuộc Nepal. Sự kiện này gắn liền với truyền thuyết về bảy bước hoa sen và lời tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, báo hiệu sự xuất hiện của một bậc giác ngộ vĩ đại. Lễ Phật đản không chỉ mang ý nghĩa tôn giáo mà còn là dịp để tưởng nhớ và học tập giáo lý từ bi, trí tuệ của Người, đồng thời khẳng định ảnh hưởng sâu rộng của Phật giáo trong lịch sử nhân loại.
Thời khắc đức Phật đản sanh, ngoài truyền thuyết bảy bước hoa sen và lời tuyên bố “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” nói trên, còn có nhiều truyền thuyết khác được ghi lại trong kinh điển Phật giáo và văn hóa dân gian, nổi tiếng như có hai dòng nước ấm và lạnh tắm cho Thái tử, các vị thiên thần và Long Vương đón chào, cây vô-ưu (Aśoka) nghiêng cành che mát, đất trời rung động, hoa sen nở khắp nơi, ánh sáng rực rỡ chiếu tỏa… báo hiệu một sự kiện phi thường. Những truyền thuyết này không chỉ mang tính huyền thoại mà còn nhấn mạnh ý nghĩa tâm linh về sự xuất hiện của một bậc giác ngộ, bậc vĩ sẽ đem lại con đường giải thoát cho nhân loại.
B. NỘI DUNG
Sự kiện đức Phật đản sanh được ghi chép trong nhiều kinh điển Phật giáo, cả Nam truyền (Theravāda) và Đại thừa (Mahāyāna). Dưới đây là một số kinh điển quan trọng đề cập đến sự kiện này:
- Kinh điển Nam truyền (văn hệ Pāḷi)
- Kinh Đại bổn (Mahāpadāna Sutta), thuộc Trường bộ kinh (Dīgha Nikāya). Nội dung bản kinh này mô tả chi tiết về sự ra đời của đức Phật Thích-ca và các đức Phật quá khứ, bao gồm các dấu hiệu kỳ diệu như bảy bước hoa sen, hai dòng nước trời tắm rửa.
- Kinh điển Bắc truyền (Phạn/Hán tạng)
- Kinh Phổ diệu (普曜經, 大正藏第 03 冊 0186). Đây là bản kinh Đại thừa mô tả đầy đủ nhất về cuộc đời đức Phật, trong đó có sự kiện đản sanh với các điềm lành như hoa sen nở, ánh sáng chói rọi, lời tiên tri của A-tư-đà (Asita)…
- Kinh Phật bản hạnh tập, phẩm Giáng sinh vương cung thứ năm (佛本行集經, 大正藏第 03 冊 0190) ghi lại cuộc đời Đức Phật từ đản sinh đến xuất gia, bao gồm các truyền thuyết về cây vô-ưu nghiêng cành, bảy bước đi.
- Kinh Quá khứ hiện tại nhân quả, quyển 1 (過去現在因果經, 大正藏第 03 冊 0189) kể lại sự tích Đức Phật đản sinh và các hiện tượng xung quanh.
- Các tác phẩm luận giải và sử Phật giáo khác như:
- Đại sự (Mahāvastu) là bộ tiểu sử về Đức Phật do những người Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravādin) mô tả chi tiết về sự ra đời của đức Phật với nhiều huyền thoại.
- Luận Đại trí độ (大智度論, 大正藏第 25 冊 1509) có nhắc đến và lý giải các điềm lành khi đức Phật đản sinh như bảy bước sen vàng…
- Trong A-tỳ-đạt-ma Thi thiết túc luận (Abhidharma Prajñaptipāda Śāstra), một bộ luận thuộc A-tỳ-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivāda), sự kiện đức Phật đản sanh và các điềm lành được nhắc đến một cách gián tiếp thông qua lăng kính phân tích giáo lý, chứ không mô tả trực tiếp như trong các kinh văn (Sūtra) hoặc sử thi Phật giáo.
Tóm lại, các kinh điển Nam truyền thường ghi chép ngắn gọn, trong khi Bắc truyền thêm nhiều chi tiết huyền thoại. Tuy khác nhau về cách diễn đạt, tất cả đều khẳng định sự kiện Đức Phật đản sinh là một sự kiện trọng đại, mang ý nghĩa lịch sử và tâm linh sâu sắc. Dưới đây, người viết chỉ giới thiệu về nội dung các điềm lành đức Phật đản sanh được nhắc đến trong A-tỳ-đạt-ma Thi thiết túc luận.
Thi thiết túc luận (Abhidharma Prajñaptipāda Śāstra) là một bộ luận quan trọng thuộc hệ thống A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma) của Phật giáo. Bộ luận này tập trung vào việc giải thích các hiện tượng và nguyên nhân sâu xa trong thế gian và xuất thế gian, đặc biệt nhấn mạnh đến các sự kiện liên quan đến đức Phật, từ lúc giáng sinh cho đến khi thành đạo. Nội dung chính của bộ luận được chia thành nhiều môn (chương), mỗi môn tập trung vào một chủ đề cụ thể, như thế gian thi thiết, nhân thi thiết, và các hiện tượng liên quan đến Chuyển luân thánh vương, Bồ-tát, và đức Phật.
Về sự kiện Bồ-tát đản sinh, trong luận có bàn luận đến mười hai điềm lành, cụ thể như sau:
[0517c28] Lại hỏi: Tại sao khi Bồ-tát ra đời cả trời đất đều rúng động? (1)
Trả lời: Đại sĩ Bồ-tát có đầy đủ uy đức, đã nói rõ ở trên.
[0518a01] Lại hỏi: Tại sao khi Bồ-tát ra đời có ánh sáng rực rỡ chiếu khắp thế giới? (2)
Trả lời: Đã nói rõ ở trên.
[0518a03] Lại hỏi: Tại sao khi Bồ-tát ra khỏi thai thánh mẫu thì thánh mẫu Bồ-tát đứng thẳng một cách bình an mà không ngồi hay nằm, cùng lúc đó dòng tộc Sát-đế-lợi cao quý cũng sinh con? (3)
Trả lời: Thánh mẫu của Bồ-tát ít bệnh tật, ít phiền muộn, đã làm nhiều thiện nghiệp nên những quả báo thù thắng tốt đẹp được thành tựu ngay hiện tiền, vì thế không nằm hay ngồi, tránh khỏi những thọ khổ.
[0518a07] Lại hỏi: Tại sao khi Bồ-tát ra khỏi thai thánh mẫu thì có bốn vị thiên tử từ bốn phương cùng đến, dùng loại da nai tốt đẹp đỡ lấy thân thể Bồ-tát? (4)
Trả lời: Trong thời gian lâu dài Bồ-tát ít bệnh tật, ít phiền muộn, làm nhiều thiện nghiệp nên những quả báo thù thắng tốt đẹp được thành tựu ngay hiện tiền, nhờ vậy khiến các vị thiên đến đỡ lấy thân thể Bồ-tát, không để chạm đất, tránh khỏi những thọ khổ.
[0518a11] Lại hỏi: Tại sao khi vừa ra đời, Bồ-tát liền đi bảy bước? (5)
Trả lời: Vì trong thời gian dài, Đại sĩ Bồ-tát đã có chánh niệm, xuất ly, thân cận, tu tập, thực hiện bố thí nhiều và rộng khắp, lại khéo ghi nhớ những điều đã được nói. Hơn nữa, Bồ-tát quyết định sau khi trở thành Như lai, bậc Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác rồi, sẽ rộng vì chúng sinh thuyết pháp Thất giác chi.
[0518a15] Lại hỏi: Tại sao khi vừa ra đời Bồ-tát đã nhìn khắp bốn phương? (6)
Trả lời: Vì trong thời gian dài, Đại sĩ Bồ-tát đã có chánh niệm cùng với tỳ-bát-xá-na, thân cận, tu tập, thực hiện bố thí nhiều và rộng khắp, lại khéo ghi nhớ những điều đã được nói. Hơn nữa, Bồ-tát quyết định sau khi trở thành Như lai, bậc Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác rồi, quán sát pháp Tứ thánh đế, khai thị diễn thuyết cho rộng rãi chúng sanh. Đây là Bồ-tát hiện trước điềm lành như vậy.
[0518a20] Lại hỏi: Vì đâu khi vừa ra đời Bồ-tát liền nói lời: “Nay thân này của Ta là sự hữu cuối cùng, là sự sanh kết thúc?” (7)
Trả lời: Khi Bồ-tát còn ở trong thai thân mẫu thường sinh lòng thương xót cứu độ chúng sanh. Sau khi ra khỏi thai, Ngài bèn nói lời rằng: “Nay thân này của Ta là sự hữu cuối cùng, là sự sanh chấm dứt?” Hơn nữa, Bồ-tát quyết định sẽ trở thành Như lai, bậc Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác, thuyết pháp hóa độ cho khắp chúng sanh. Đây là Bồ-tát hiện trước điềm lành như vậy.
[0518a26] Lại hỏi: Tại sao khi Bồ-tát vừa ra đời, từ trên không trung tuông xuống hai dòng nước lạnh và ấm để tẩy gội cho thân thể của Bồ-tát không bị dơ bẩn? (8)
Trả lời: Đó chính là uy lực của loài rồng, bởi các vị long vương trên trời phát khởi lòng tin vững chắc thanh tịnh đối với Bồ-tát nên hiện ra điềm lành như thế.
[0518a29] Lại hỏi: Tại sao khi Bồ-tát vừa ra đời, trước mặt thánh mẫu có một dòng nước lớn từ dưới đất phun lên, nước đó để thánh mẫu tùy ý sử dụng? (9)
Trả lời: Đó chính là uy lực của loài rồng, bởi các vị long vương trên trời phát khởi lòng tin vững chắc thanh tịnh đối với Bồ-tát nên hiện ra điềm lành như thế.
[0518b03] Lại hỏi: Tại sao khi Bồ-tát vừa ra đời, trên không trung tự nhiên có tiếng âm nhạc cõi trời tấu lên? (10)
Trả lời: Đó chính là uy lực của các vị trời, các vị ấy phát khởi lòng tin vững chắc thanh tịnh đối với Bồ-tát. Hơn nữa, Bồ-tát quyết định trở thành Như lai, bậc Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác, tiếng lành truyền đến khắp nơi. Đây là Bồ-tát hiện trước điềm lành như vậy.
[0518b07] Lại hỏi: Tại sao khi Bồ-tát vừa ra đời, trên không trung tự nhiên có mưa hoa rơi xuống, như hoa ưu-bát-la, hoa bát-nạp-ma, hoa bôn-noa-lợi-già, hoa câu-mẫu-na, hoa mạn-đà-la, v.v. Lại có mưa các thứ bột thơm như trầm thủy, huân lục, chiên-đàn, cho đến các thứ y phục cao quý trên không trung rải xuống? (11)
Trả lời: Đó chính là uy lực của chư thiên, các vị ấy phát khởi lòng tin vững chắc thanh tịnh đối với Bồ-tát. Hơn nữa, Bồ-tát quyết định khi trở thành Như lai, bậc Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác rồi, có đầy đủ phước đức và sức mạnh, tất cả đồ mặc, món ăn, giường nằm, đồ ngồi, thuốc chữa bệnh và các vật dụng khác đều có được sung túc. Đây là Bồ-tát hiện trước điềm lành như vậy.
[0518b15] Lại hỏi: Tại sao sau khi Bồ-tát mới được sinh ra bảy ngày, thân mẫu của Bồ-tát liền mệnh chung? (12)
Trả lời: Khi vị Đại sĩ Bồ-tát có oai đức lớn ấy giáng vào thai thân mẫu thì các vị thiên tử ở cõi Tam thập tam vô cùng tôn kính Bồ-tát, liền dùng ánh sáng oai lực tối thượng ở cõi trời trao cho thân mẫu của Bồ-tát. Sau khi Bồ-tát đã ra khỏi thai thân mẫu rồi thì người thân mẫu không có trở lại ánh sáng oai lực ấy của thiên nữa nhưng thân mẫu của Bồ-tát vẫn có đủ tướng mạo tốt đẹp trong cõi người, các món ăn uống ngon ngọt đều được tùy nghi thọ dụng nên thân mẫu của Bồ-tát liền mệnh chung. (大正藏第 26 冊 No. 1538 施設論, p. 517, c28-p. 518, b20)
Qua đoạn trích từ Thi thiết túc luận, khi so sánh với các kinh điển khác, ta thấy có sự thống nhất về cốt lõi nhưng khác biệt về cách trình bày và chi tiết. Dưới đây là bảng so sánh với các kinh văn tượng trưng (kinh Đại bổn (Nguyên thủy) và kinh Phổ diệu (Đại thừa)) để làm rõ sự dị đồng:
1. So sánh các điềm lành đản sanh
Điềm lành | Thi thiết túc luận (A-tỳ-đạt-ma) | Kinh Đại bổn (văn hệ Pāḷi) | Kinh Phổ diệu (Hán tạng) |
1. Trời đất rúng động | Do uy đức của Bồ-tát tích lũy từ vô lượng kiếp (0517c28). | Mười ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. | Đất rung chuyển dữ dội, hoa sen nở khắp mười phương. |
2. Ánh sáng chiếu khắp | Ánh sáng là biểu hiện của công đức Bồ-tát (0518a01). | Một luồng hào quang vô lượng thần diệu, thắng xa oai lực của chư thiên hiện ra cùng khắp thế giới. | Ánh sáng át cả mặt trời, mặt trăng, chư Thiên Thích, Phạm cũng đều bị che phủ, chư thiên ca ngợi, rải hoa cúng dường. |
3. Thánh mẫu đứng sinh | Do thiện nghiệp của thánh mẫu, tránh khổ đau (0518a03). | Không có chi tiết này. Chỉ nói Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra. | Không có chi tiết này. Chỉ nói Thái tử sinh ra từ hông phải, không hề đau đớn. |
4. Bốn thiên tử đỡ thân Bồ-tát | Do quả báo thiện nghiệp của Bồ-tát, chư thiên tự nguyện (0518a07). | Không có chi tiết này. | Không có chi tiết này. |
5. Bảy bước hoa sen | Là biểu hiện của chánh niệm và nguyện thuyết pháp Thất giác chi (0518a11). | Mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, không hoa nâng bước. | Bảy bước đi, dưới chân hiện bảy hoa sen báu. |
6. Nhìn bốn phương | Liên hệ đến tuệ quán Tứ đế (0518a15). | Nhìn khắp cả mọi phương, | Không có chi tiết này. |
7. Lời tuyên thuyết | “ Nay thân này của Ta là sự hữu cuối cùng, là sự sanh kết thúc ” – do tâm đại bi từ trong thai (0518a20). | “Ta là bậc Tối thượng ở trên đời! Ta là bậc Tối tôn ở trên đời! Ta là bậc Cao nhất ở trên đời! Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa ”. | “Ta sẽ cứu độ trên trời và dưới nhân gian, làm bậc tôn quý trong hàng trời người, bậc vô thượng của ba cõi, đoạn trừ khổ sinh tử. Ta sẽ làm cho tất cả chúng sinh đạt đến chỗ vô vi an lạc”. |
8. Hai dòng nước trời tắm | Do Long Vương cúng dường (0518a26). | Hai dòng nước ấm lạnh từ hư không tuôn xuống. | Chín rồng từ trên không phun nước thơm xuống tắm rửa Thái tử. |
9. Âm nhạc, mưa hoa cõi trời | Chư thiên cúng dường vì tin tưởng Bồ-tát (0518b03, 0518b07). | Không nhắc đến. | Trăm ngàn chư Thiên đều cùng nhau rải hoa, ca ngợi đức tinh tấn của Bồ-tát vững chắc như kim cang. |
10. Thánh mẫu qua đời sau 7 ngày | Do mất ánh sáng oai lực từ cõi trời, nhưng vẫn hưởng phước báo (0518b15). | Không nhắc đến. | Vì khi sinh Bồ-tát, thân căn của mẹ không hề bị thiếu khuyết, bà xứng đáng được hưởng thọ phước lộc ăn mặc trên cõi trời Đao-lợi, nên bà sinh lên trời Đao-lợi. |
2. Điểm tương đồng và khác biệt
Tương đồng: Cả ba truyền thống Theravāda (kinh Đại bổn), A-tỳ-đạt-ma (Thi thiết túc luận) và Đại thừa (Kinh Phổ diệu) đều thống nhất ghi nhận những điềm lành căn bản, khẳng định tính siêu việt của đức Phật ngay từ giây phút Ngài xuất hiện trên thế gian. Cả ba đều mô tả bảy bước dũng mãnh- biểu tượng của sự giác ngộ viên mãn, hai dòng nước trời ấm và lạnh – dấu hiệu của sự thanh tịnh tuyệt đối, ánh sáng đất trời rung động báo hiệu bậc đại sư xuất thế và lời những tuyên bố đầy uy lực (“Ta là bậc Tối thượng ở trên đời! Ta là bậc Tối tôn ở trên đời! Ta là bậc Cao nhất ở trên đời!” hoặc “Ta sẽ cứu độ trên trời và dưới nhân gian, làm bậc tôn quý trong hàng trời người, bậc vô thượng của ba cõi”) tuy có ngữ văn sai khác – đều thể hiện sự thức tỉnh vô song. Những điểm chung này không chỉ cho thấy sự nhất quán trong các nguồn kinh điển, mà còn nhấn mạnh một chân lý then chốt: Đức Phật không phải là một chúng sanh bình thường, mà là một bậc Toàn giác, đản sinh với sứ mệnh giải thoát chúng sinh khỏi vòng luân hồi. Sự trùng hợp này cũng phản ánh tầm quan trọng của sự kiện đản sanh như một nền tảng thiêng liêng, xuyên suốt mọi tông phái Phật giáo, từ nguyên thủy đến phát triển. Dù được diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị hay hình ảnh huyền thoại, cốt lõi vẫn là thông điệp về một đấng giác ngộ xuất hiện vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
Khác biệt:
Tiêu chí | Thi thiết túc luận (A-tỳ-đạt-ma) | Kinh Đại bổn (văn hệ Pāḷi) | Kinh Phổ diệu (Hán tạng) |
1. Mục đích | Giải thích giáo lý, biện chứng nhân quả nghiệp báo. | Ghi chép sự kiện lịch sử. | Thần thoại hóa, nhấn mạnh hạnh nguyện Bồ-tát. |
2. Chi tiết huyền thoại | Ít hơn, tập trung vào “uy lực” và “quả báo”. | Đơn giản, trực tiếp. | Phong phú (mưa hoa, chin rồng, chư thiên), cảnh tượng thiêng liêng, sinh động. |
3. Vai trò chư thiên | Chư thiên, Long Vương hỗ trợ do nghiệp lực Bồ-tát (0518a26). | Không nhắc đến. | Chư thiên chủ động cúng dường như nghi lễ. |
Sự khác biệt như trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trước tiên, bởi vì Thi thiết túc luận thuộc Luận tạng, thiên về phân tích nhân duyên (ví dụ: “do Bồ-tát tu thiện nghiệp nên chư thiên hiện điềm lành”)… trong khi đó, kinh Đại bổn giữ tính tường thuật khách quan, ít thêm thắt huyền thoại, hoặc kinh Phổ diệu mở rộng chi tiết để tôn vinh hạnh nguyện Bồ-tát, phù hợp với tinh thần Phật thừa.
C. KẾT LUẬN
Qua việc so sánh các nguồn kinh điển, ta thấy mỗi bản văn đều mang những giá trị đặc thù, góp phần làm rõ sự kiện đức Phật đản sanh từ nhiều góc độ khác nhau. Kinh Đại bổn thuộc truyền thống Theravāda, với lối ghi chép súc tích và gần gũi, cung cấp tư liệu có giá trị lịch sử cao, giúp ta hình dung rõ nét về các sự kiện khách quan xung quanh giây phút đức Phật ra đời. Trong khi đó, A-tỳ-đạt-ma Thi thiết túc luận đi sâu vào phân tích triết học, giải thích các điềm lành thông qua lăng kính nghiệp lực và uy đức tích lũy của Bồ-tát qua vô lượng kiếp, nhấn mạnh mối liên hệ nhân quả giữa công hạnh tu tập và sự thị hiện siêu việt. Đặc biệt, kinh Phổ diệu của truyền thống Đại thừa lại chú trọng vào giá trị biểu tượng, sử dụng những huyền thoại sống động về sự can thiệp của chư thiên, Long Vương, cùng những hình ảnh mỹ lệ như mưa hoa trời, ánh sáng rực rỡ, để truyền cảm hứng tu tập và khơi dậy lòng tôn kính đối với bậc giác ngộ. Sự bổ sung lẫn nhau giữa ba nguồn tư liệu này không chỉ làm phong phú thêm hiểu biết của chúng ta về sự kiện trọng đại này, mà còn phản ánh sự đa dạng trong cách tiếp cận chân lý của Phật giáo: từ sự kiểm chứng lịch sử, phân tích giáo lý cho đến niềm tin tâm linh. Dù tiếp cận theo cách nào, cốt lõi vẫn là khẳng định tính phi thường của đức Phật và ý nghĩa vĩ đại của sự xuất hiện Ngài trong cuộc đời này như một vị Thầy dẫn đường, một tấm gương giác ngộ viên mãn, và là niềm hy vọng giải thoát cho tất cả chúng sinh.
Các điềm lành khi đức Phật đản sinh trong A-tỳ-đạt-ma Thi thiết túc luận được phân tích sâu qua lăng kính nhân quả và nghiệp lực, khác biệt với các kinh điển thông thường, không đơn giản chỉ là những ghi chép sự kiện lịch sử. Luận này nhấn mạnh rằng mọi hiện tượng kỳ diệu, từ hào quang chiếu khắp mười phương, đất rung chuyển, đến hoa sen nâng gót Thái tử… đều là kết quả tất yếu của công đức tu tập Ba-la-mật qua vô lượng kiếp của Bồ-tát. Ví dụ, ánh sáng siêu nhiên phản ánh trí tuệ viên mãn, hoa sen tượng trưng cho giới hạnh thanh tịnh, và bốn vị thiên tử nâng đỡ lấy thân vì Bồ-tát không bị nhiễm ô bởi thế gian pháp nên không chạm đất… Đặc biệt, luận giải thích việc Thái tử sinh ra liền đi bảy bước tượng trưng cho việc Ngài sẽ giảng dạy về Thất giác chi (bảy yếu tố giác ngộ). Qua đó, Thi thiết túc luận biến những điềm báo huyền thoại thành bằng chứng luận lý về con đường giác ngộ tất yếu của một vị Phật.
THƯ MỤC THAM KHẢO
- 大正新脩大藏經 (Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh)
- Thích Trung Quán biên dịch (2004), Kinh Phật bản hạnh tập, Nxb Thành hội Phật giáo Tp. HCM, Hồ Chí Minh.
- Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (2019), Kinh trường bộ (Dīgha Nikāya), Nxb Hồng Đức, Hồ Chí Minh.
- https://thuvienhoasen.org/a24223/chuong-3-dai-su-mahavastu-
Thích Nhuận Giác