Thích Tâm Nhãn: Triết học Luật tông và tinh thần thượng tôn giới luật

(Tưởng niệm Tôn sư Tuyên luật sư Thích Đỗng Minh [ngày 11 tháng 5, Ất dậu – 11 tháng 5, Giáp thìn])
1. Triết học luật pháp xã hội dân sự:
Hai bé gái sáu tuổi, Margie và Natasha, đang tranh cãi về một tòa lâu đài bằng cát chúng xây trên bãi biển. Natasha bảo Margie, “Tớ không cho cậu chơi với tòa lâu đài bằng cát của tớ. Tớ đã mất nhiều công đắp nên nó, vì thế nó là của tớ.” Margie cãi lại, “Cát không là của ai hết. Dĩ nhiên nó không thuộc về cậu. Hơn nữa, lúc này chúng ta không ở trường nên không có luật lệ gì cả. Nếu cậu không để tớ chơi với cái lâu đài cát này, tớ sẽ gõ đầu cậu đấy.” Natasha dọa lại ngay, “Nếu cậu gõ đầu tớ thì tớ sẽ bảo chị tớ nhéo mũi cậu.”[1]
Theo lý luận của Margie, con người có thể làm theo ý chí tự do như trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ tuyên bố năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.[2]
Khi bàn về tự do của công dân, Montesquieu đã viết: “Tự do, với ý nghĩa triết học, là được thực hiện ý chí của mình… Nhưng tự do chính trị tuyệt đối không phải muốn làm gì thì làm. Trong một nước có luật pháp, tự do chỉ có thể được làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm… Nếu một công dân làm điều trái luật thì anh ta không còn được tự do nữa, vì nếu để anh ta tự do làm thì mọi người được làm trái luật cả”[3] Nghĩa là một khi ai đó phủ nhận tính hữu ích của pháp luật, và hành vi của họ gây tổn hại rõ ràng hay có nguy cơ gây tổn hại rõ ràng, dù là tổn hại cho cá nhân hay cho cộng đồng, thì trường hợp đó phải được đưa ra khỏi địa phận quyền tự do và đặt vào địa phận đạo đức hay pháp luật.
Vậy Natasha là chủ sở hữu tòa lâu đài cát, cũng thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ và chi phối tài sản của mình, như thế đúng với pháp luật chưa, có trái với đạo đức xã hội không?
Jean-Jacques Rousseau phát biểu một câu nghe vô cùng kỳ lạ: “Một dân tộc chỉ nổi tiếng khi nền luật pháp của họ bắt đầu thoái hoá.” Và ông phân tích hệ thống luật pháp thành bốn phần: Thứ nhất là luật Căn bản (luật Chính trị) là luật dùng điều hành mối quan hệ giữa Hội đồng tối cao đối với quốc gia, cùng tương quan với nhiều cơ quan trung gian. Thứ hai, luật Dân sự là tương quan giữa các thành viên và mỗi công dân cũng lệ thuộc vào cộng đồng. Thứ ba, là luật Hình sự, là mối quan hệ giữa sự bất tuân luật pháp và các biện pháp chế tài; biện pháp chế tài nhằm ngăn chặn sự vi phạm các luật lệ khác. Cuối cùng là luật lệ quan trọng nhất, dù không được khắc trên bia đá hay bảng đồng nhưng ở trong tim của tất cả mọi công dân, đó là nguyên tắc đạo đức.[4]
Về nguyên tắc đạo đức, John Stuart Mill nói: “Một chân lý về đạo đức hay sự chín chắn phải cần một khoảng thời gian và lượng trải nghiệm nhất định nào đó đã được thiết lập, để mong muốn ngăn chặn cho thế hệ này kế tiếp thế hệ khác khỏi bị rơi từ trên cùng một bờ vực”.[5] Tức những hiện tượng phát triển tự nhiên trong xã hội không phải lúc nào cũng tốt đẹp từ lương tâm trong sáng thánh thiện của mỗi con người, mà phải cần đến luật lệ đồng hành mới kiện toàn hoàn thiện dần.
2. Nguyên tắc sống của cộng đồng Tăng-già và Phật tử tại gia:
Thảo bàn đến giới luật của Phật giáo. Giới luật Phật giáo chia làm hai loại khác biệt, một dành cho cư sĩ Phật tử tại gia, hai dành cho chúng xuất gia. Về ý nghĩa cơ bản, giới là những hành vi thực hiện bởi thân, ngữ và ý, thiện hay bất thiện, tác thành nhân cách, tác thành phẩm giá của một con người. Phẩm giá nhân cách ấy định hướng thăng trầm hay đọa lạc trong chuỗi tái sinh tiếp nối.
Sau khi đức Phật thành đạo (tương đương năm 1123-256 trước Tây lịch, triều đại nhà Châu Trung Hoa),[6] Ngài độ nhóm A-nhã Kiều-trần-như (Aññāta Koṇḍañña) 5 người, nhóm anh em Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (Uruvela-kassapa), Xá-lợi-phất, Đại Mục-liên v.v. Lúc này những vị Thánh đệ tử đầu tiên của Phật, họ đã chứng nghiệm chân lý, và giới thể tỳ-kheo vận hành nơi mỗi người một cách tự nhiên, gọi là “kiến đế đắc giới”, đắc giới do chứng ngộ bốn Thánh đế, không ai thọ giới cả. Tuy nhiên, nhóm Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp trước khi cải đạo theo Phật, họ thuộc phái tu khổ hạnh bện tóc không bao giờ cắt, gọi là “Loa kế phạm chí 螺髻梵志” (Phạm-chí búi tóc hình con sò, Pāli: jaṭila), họ có đồ chúng riêng, khi được Phật độ, số đệ tử đi theo lên đến cả ngàn người[7]. Trong số ấy có rất nhiều người chưa đạt đến Thánh đạo, sinh hoạt của họ bộc lộ khá nhiều khuyết điểm khiến cho phẩm giá tỳ-kheo bị hạ thấp, bị ngươì đời chê trách, vì vậy đức Phật bắt đầu quy định những quy tắc sinh hoạt để chỉ dẫn các tỳ-kheo phàm phu những điều không nên làm và những phận sự cần phải làm. Và theo luật Thiện kiến ký tải, đức Phật thành đạo sau 20 năm mới bắt đầu chế giới. Luật Tăng-kỳ lại ghi: Đức Phật ở tại thành Tỳ-xá-ly, sau bữa ăn, Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, lúc bóng xế độ nửa thân người, ngày 12 tháng thứ năm của mùa Đông, sáu năm sau khi thành đạo[8].
Khi những luật lệ được đặt ra, thực tế diễn ra tiếp theo cần có những biện pháp chế tài. Người phạm luật cần được xử trị theo quy định. Chẳng hạn, khi đức Phật nêu ra một việc khuyên dạy các tỳ-kheo không nên làm, những điều đó chưa được quy định thành luật mà chỉ là những điều giáo huấn, nên cũng có trường hợp tỳ-kheo không chấp hành mà không hề bị khiển trách, không hề bị xử trị, cho đến khi nào vị ấy tự thấy chỗ sai lầm của mình và hiểu rõ ý nghĩa điều Phật khuyến cáo không nên làm, bấy giờ tự nguyện sám hối và tự nguyện chấp hành nghiêm chỉnh.
Còn quy tắc sống cho đệ tử tại gia, họ sống cá biệt với gia đình thân quyến của mình không có luật định chế tài nào, ngoài những lời khuyên dạy của Phật nên làm hay không làm gì. Nếu họ thấy không thể chấp hành, thì cũng không có biện pháp cưỡng bức như tỳ-kheo. Luật lệ mà người tại gia cần phải chấp hành, đó là luật quốc gia, và những quy định cá biệt của từng cộng đồng xã hội.[9]
3. Các tông sư Luật tông – duy trì mạng mạch Chánh pháp:
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ hai, thứ ba trước Tây lịch. Vào buổi sơ khai, nói đến tổ sư đầu tiên trì luật là ngài Khương Tăng Hội (sinh năm 200), sư thọ giới khoảng năm 220. [10] Kế đến tổ Pháp Chuyên (Luật Truyền – Diệu Nghiêm, 1726-1798), bổn sư của ngài Toàn Nhật, dưới thời Tây Sơn.
Về sau, đến thời cận đại: Thế hệ thứ nhất được nói, trong Nam, là các Trưởng lão Hành Trụ, Thiện Hoa. Ngoài Trung có Trưởng lão Đôn Hậu và Trí Thủ. Ngoài Bắc, Trưởng lão Bình Minh và Tổ Tuệ Tạng, Tổ là một trong các bậc Tôn Túc hàng đầu khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo.[11] Thế hệ thứ hai là Hòa thượng Đỗng Minh. Thế hệ thứ ba là Hòa thượng Tuệ Sỹ.
Trong bài “Một thời truyền luật”, thầy Tuệ Sỹ viết: “Sự xưng tán đệ nhất hay đệ nhị ở đây tùy thuộc nhận thức chủ quan, trong ý tưởng đánh dấu khúc quanh chuyển mình của lịch sử Phật giáo Việt Nam, trong đó sự chấn chỉnh chế độ Tăng-già, hoằng truyền Luật tạng là một thạch trụ vững chắc. Việc trì luật và truyền luật là mạng mạch liên tục của sự tồn tại Chánh pháp”. Và theo chúng tôi, những vị tông sư trì luật này ngoài vấn đề gìn giữ mạng mạch, chấn chỉnh chế độ Tăng-già, họ còn đại diện là những vị “Tha-la-tha 他邏咃” (Tăng-kỳ 26, p. 439b22). Tha-la-tha, Phạn ngữ: sthala-stha (sthala-stha-varta); Pāli: thalaṭṭha. Tát-bà-đa tỳ-ni tỳ-bà-sa (9, p. 563c28), gọi là thát-lại-tra-lợi (闥賴吒利, Skt. sthalasthalī), thát-lại (sthala) dịch địa (đất), tra-lợi (stha) dịch là trụ, chỉ cho người trí thắng tự tại đối với chánh pháp bất động, như người đứng vững trên đất không bị nghiêng ngửa. Hoặc Ma-đắc-lặc-già (3, T23n1441, p. 579b18) giải thích: “Thát-lại-tra là người không thiên bên này hay bên kia giữa hai phe nhóm.”
Nói rõ hơn, khi trong Tăng có việc tranh chấp, hoặc gồm các nguyên tắc cử tội tức tố quyền của tỳ-kheo nguyên cáo, và các trường hợp bất phục tức kháng biện của tỳ-kheo bị cáo vân vân; Tăng sẽ chỉ định người đoán sự (斷事, xử lý việc), hay thiết lập ban đoán sự, là bầu những vị Tha-la-tha. Điều này xem ra cũng tương tợ cách tổ chức các cấp tòa án khác trong pháp chế thế tục.
Đối với xã hội Việt Nam trong thời đại mà nếp sinh hoạt tinh thần đạo đức truyền thống của Phật giáo bị suy thoái trầm trọng như hiện nay, thì trong Tăng cần một tỳ-kheo, có uy tín về phẩm chất trí tuệ cũng như tư cách đạo đức, không can sự vào phe nào cả để đứng ra làm trung gian hòa giải là điều cần thiết.
4. Tinh thần thượng tôn giới luật:
Trước năm 75, có một vị Tôn trưởng trong Phật giáo chủ trương “cốt tu tâm, còn giới luật là phụ.” Và muốn sửa đổi giới bổn tỳ-kheo. Thầy Tuệ Sỹ hỏi: “Giới luật Phật chế, sao thầy dám tự tiện sửa?” Vị Tôn trưởng ấy đáp: “Không giữ được, thì nên sửa. Chứ để như vậy làm gì?” Thầy Tuệ Sỹ bảo rằng: “Thầy giữ không được là chuyện của thầy. Ai giữ được, để người ta giữ. Sao thầy lại tự tiện sửa?”[12].
Đến năm 2000, vị Tôn trưởng ấy ấn hành những tập giới luật do chính mình cải biên, gửi cho Hòa thượng Đỗng Minh xem. Hòa thượng Đỗng Minh giật mình trước sự đi xuống của Tăng-già. Hòa thượng soạn một lá thư, đóng góp về việc luật học, muốn vị ấy cần tôn nghiêm trọng thị giới điều Phật chế; Hòa thượng Đỗng Minh dạy tôi cấp tốc gửi cho vị Tôn trưởng ấy. Nhưng mọi thứ đã đi quá xa, giới luật Phật chế bị hạ thấp ngang tầm với thời đại, sao cho hợp “khẩu vị” thì cứu vãn gì được. May thay! Trong những giai đoạn Phật giáo suy vi, có nhiều vị thượng tôn giới luật như Hòa thượng Đỗng Minh, Hòa thượng Tuệ Sỹ còn hiện diện như biểu tượng “Giới luật là thọ mạng của Tăng-già; giới luật còn thì Phật pháp còn”.
Ở Trung Quốc, thời ngài Thái Hư (1889-1947), khi đời sống Tăng lữ ngày càng bại hoại, ngài phải đứng ra chỉnh lý chế độ Tăng-già. Đến thời Luật sư Tục Minh (1918-1966), ông thấy phẩm hạnh Tăng nhân xuống thấp, Phật giáo suy bại, xem hình thức thọ giới như đem dê đi cúng thần, buộc phải đứng ra “hoằng giáo hộ quốc” và viết tác phẩm Giới học khái thuyết.[13] Do đó, dù Phật giáo ở phương xứ nào, có trụ vững, phát triển trên quê hương mình hay không đều tùy thuộc hay ảnh hưởng rất lớn nơi các vị tông sư Trì luật này.
“Luật Phật hướng đến giải thoát, người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Và giới luật được Phật chế, với mục đích nhiếp Tăng, vị chưa từng sống nhiều năm trong Tăng, chưa từng xử lý việc Tăng, cũng khó hiểu hết giá trị những điều luật Phật quy định”.[14]
Hiện tại và trong tương lai, niềm tin tôn giáo có thể bật khỏi tâm trí của nhiều tín đồ, hoặc Phật giáo bị lung lay đến tận gốc rễ cũng bởi một phần “Mộc-xoa” (波羅提木叉, prātimokṣa) không còn ứng thế và tinh thần thượng tôn giới luật tiêu trầm, tuyệt tích.
“Nul n’est censé ignorer la loi”.
Phật lịch 2568, mùng 9 tháng 5, Giáp thìn.
Tâm Nhãn
[1] William F. Lawhead, Triết học phương Tây, Nxb Từ điển bách khoa, tr. 7.
[2] https://en.wikipedia.org/…/United_States_Declaration_of….
[3] Montesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật; Người dịch: Hoàng Thanh Đạm; Nxb Lý luận chính trị, tr. 103-105.
[4] Jean-Jacques Rousseau, Khế ước xã hội (Du Contrat Social), Học viện công dân 2006-2007, tr. 59, 77-78 (PDF).
[5] John Stuart Mill, On Liberty, ch. 4: Of the Limits to the Authority of Society over the Individua, 2001, p. 75.
[6] Hajime Nakamura, Gotama Buddha, Volume One, translated by Gaynor Sekimori, p. 187.
[7] 摩訶僧祇律 23, T22n1425, p0412c20. 四分律卷32, T22n1428, p. 793b16.
[8] 善見律毘婆沙卷6, T24, no. 1462, p. 712b7. 摩訶僧祇律2, p. 238a22.
[9] Tuệ Sỹ, Du-già Bồ-tát giới, Nxb Hương Tích.
[10] Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam 1, tr. 19-25, 310, 327.
[11] Tuệ Sỹ, Một thời truyền luật.
[12] Tuệ Sỹ, Một thời truyền luật.
[13] 戒學概說 (律宗概述及其成立與發展 [88]), p. 217.
[14] Tuệ Sỹ, Một thời truyền luật.