Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Hòa (1907 – 1978), Phó Tăng Thống GHPGVNTN

I.  THẾ TỘC:

Hòa thượng pháp hiệu Thích Thiện Hòa, thế danh Hứa Khắc Lợi sanh năm 1907 tại làng Tân Nhựt Chợ Lớn. Ngài sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, thân phụ là Hứa Hắc Tài, thân mẫu là Nguyễn Thị Giáp. Gia đình cả thảy bảy anh em: ba nam, bốn nữ, Ngài là người thứ bảy. Vì người thứ tám mất sớm nên Ngài được coi là con út.

II.  THỜI NIÊN THIẾU VÀ TU TẠI GIA:

Vừa lên năm tuổi, Cụ Bà tạ thế, Ngài và anh chị phải sống cảnh côi mẹ, chỉ còn quanh quẩn bên cha. Lên sáu tuổi, Ngài cắp sách vào trường, học hết cấp Trung Học, thì Cụ Ông lại thất lộc. Năm ấy Ngài được mười lăm tuổi dừng học ở trường, trở về học Nho với Cụ Đồ Soạn ba năm. Sau khi cha mẹ mất hết. Ngài và anh chị đều được sự đùm bọc của Bà Nội, vẫn được tiếp tục học hành.

Cũng năm mười lăm tuổi, Ngài phát tâm mộ đạo, tìm đến chùa Long Triều trong lòng để quy y thọ giới với Tổ Bửu Sơn và được pháp danh là Tâm Lợi, hiệu Thiện Hòa. Sau khi quy y thọ giới, Ngài tập ăn Thập Trai. Năm mười bảy tuổi, Ngài vâng lệnh Bà Nội buộc lập gia đình để kế thừa hương hỏa. Trong thời gian đó, Ngài sinh đưọc hai người con: một gái và một trai. Đến năm hai mươi tuổi, Ngài ăn trường chay, lúc này chí xuất trần của Ngài rất mạnh, sóng vì phụng dưỡng Bà Nội, nên đành phải cất một am nhỏ để thọ trì Kinh Kim Cang suốt mười hai năm và tập hạnh của người xuất gia.

III.  THỜI XUẤT GIA HỌC ĐẠO:

Năm lên 28 tuổi, Bà Nội từ trần, thế là hiếu nghĩa đã vẹn toàn, Ngài quyết chí xuất gia. Sắp đặt việc gia đình xong Ngài đến yết kiến Tổ Bửu Sơn xin xuất gia. Tổ giới thiệu Ngài đến Tổ Khánh Hòa hiện là Giám Đốc Trường Phật Học Lưỡng Xuyên Trà Vinh. Lễ xuất gia của Ngài được tổ chức vào Rằm tháng Tư năm Ất Hợi (1935) tại trường Phật Học Lưỡng Xuyên Trà Vinh. Lễ xuất gia của Ngài được tổ chức vào Rằm tháng Tư năm Ất Hợi (1935) tại trường Phật Học Lưỡng Xuyên và được Tổ Khánh Hòa khen: “là người hảo tâm xuất gia, ít ai được như Thiện Hòa”.

Tuy mới xuất gia nhưng phong cách đã vượt chúng bạn, nên tất cả đều đồng ý cử Ngài làm Chánh Trị Sự của Trường Nhờ sự chăm chỉ học hành, tinh tấn tu tập, giới luật trang nghiêm và tận tâm phục vụ chúng Tăng nên được Ban Giám Đốc nhà trường yêu mến ngợi khen, và toàn chúng đều quý kính Hòa Thượng như người anh cả. Cuối tháng 6 năm 1936, Hòa Thượng được tuyển chọn cùng với Thượng Tọa Thích Hiển Khánh Hòa và Thích Hiển Không đến dặn dò: “Sau khi học xong ở Huế, Thiện Hòa nên ra Bắc học và nghiên cứu thêm Tạng Luật, vì ở Bắc còn nhiều bản Luật của thời xưa để lại. Tôi tin tưởng người của Thiện Hòa sẽ làm được việc nầy”. Vâng lời dạy của Tổ, Hòa Thượng và hai Thượng Tọa lên đường ra Huế.

Đến Huế, Hòa Thượng cùng hai vị được vào học trường Tây Thiên dưới sự giảng dạy của Hòa Thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp Bình Định. Năm sau 1937, trường dời về chùa Tường Vân. Cũng năm ấy Hòa Thượng Thiện Hoa, Thượng Tọa Bửu Ngọc, Thượng Tọa Chí Thiện… tiếp tục ra Huế học. Cuối năm 1938, vì kém sức khỏe, Tổ Phước Huệ trở về Bình Định dạy tại chùa Long Khánh, Hòa Thượng cũng theo vào Bình Định học và làm thị giả hầu Tổ một năm. Đến cuối năm 1939, Hội An Nam Phật Học Huế lập Phật Học Đường Báo Quốc, Hòa Thượng được mời làm Thủ chúng. Nơi đây Hòa Thượng vừa học vừa điều hòa chúng ngót năm năm. Bởi tánh ôn hòa thuần hậu, cần mẫn vị tha của Hòa Thượng khiến toàn chúng đều yêu mến. Chẳng những Ngài được cảm tình của chúng Tăng, cho đến Hội An Nam Phật Học cũng quý kính. Cuối năm 1944, Phật Học Đường Báo Quốc dời lên Tùng Lâm Kim Sơn xã Lưu Biểu. Ở đây học được một năm, gặp chánh biến, lúa gạo đắt đỏ nên lớp Trung lớp Sơ phải vào Nam, riêng Hòa Thượng quyết tâm ra Bắc học Luật.

Ngày hai mươi tháng ba năm 1945, Hòa Thượng lên đường ra Hà Nội. Tới nơi, Hòa Thượng tạm trú chùa Quán Sứ. Sau đó sang chùa Bút Tháp do Hòa Thượng Giải Ngạn trụ trì để thọ giới Cụ Túc vào Rằm tháng Tư năm Ất Dậu (1945) với Tổ Tuệ Tạng làm Hòa Thượng đàn đầu. Thọ Đại giới xong, Hòa Thượng đến Hà Nam học với Tổ Tuế Xuyên chùa Bảo Khám. Hai nơi nầy Hòa Thượng học ngót bốn năm. Trong lúc ở chùa Bút Tháp, Hòa Thượng có chủ trương Tuần báo Hoa Sen rất thích hợp với các giới Tín đồ xứ Bắc.

Đến năm 1949, Hòa Thượng hợp tác với Sư Cụ Tố Liên thành lập Giáo Hội Tăng Ni Chỉnh Lý (tiền thân Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc) và mở Phật Học Đường đào tạo Tăng Ni tại chùa Quán Sứ Hà Nội. Nơi đây, ngoài chức Giám Trường, Hòa Thượng còn trợ bút cho Tạp Chí Phương Tiện và Bồ Đề Tân Văn.

Đến ngày mồng một tháng Ba năm Canh Dần (1-5-1950), Sư Cụ Tố Liên được mời đi dự Đại Hội Phật Giáo Thế Giới lần Thứ nhất họp tại Colombo Thủ đô nước Tích Lan. Trước đó một ngày, trong buổi tiệc tiến hành đồng thời với Sư Cụ Tố Liên, Hòa Thượng lãnh trách nhiệm trở về Nam.

Tóm lại, Hòa Thượng tham học ở Trung chín năm (1936 1945), ra Bắc năm năm (1945-1950) là 14 năm, mà chỉ một lần đi một lần về.

Chính trong thời gian Hòa Thượng xuất gia học đạo ấy, ở gia đình cũng tuần tự xuất gia theo: người con gái tức Ni Sư Như Hoa hiện làm Giám Học Phật Học Ni Viện Từ Nghiêm. Người con trai là Thầy Tịnh Đức (đã viên tịch năm 1957) theo hầu Thượng Tọa Thích Trí Tịnh, về sau trở thành một giáo sư xuất sắc của nhiều Phật Học Đường Miền Nam và còn những người trong thân quyến cũng lần lượt xuất gia theo. Đây là một điểm đặc biệt hiếm có trong các gia đình tin Phật.

IV.  THỜI HÓA ĐẠO:

Sau khi về Sài Gòn, Hòa Thượng dừng lại ở chùa Sùng Đức, nơi đây là chỗ hợp nhứt hai Phật Học Đường Liên Hải và Mai Sơn mà Hòa Thượng đã hợp tác với quý Thượng Tọa ở đây thành lập một Ban Giám Đốc của Phật Học Đường Nam Việt, Hòa Thượng được cử làm Giám Đốc. Sang năm 1951, Thượng Tọa Thích Trí Hữu cúng cho Hòa Thượng ngôi chùa lá nhỏ hiệu là Ứng Quang nằm bên đường Lorgeril (Sư Vạn Hạnh) gần ngã ba Vườn Lài. Hòa Thượng cho sửa chùa nầy thành trường học để hiệu là Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang và khóa đầu tiên được khai giảng vào mùa An Cư năm Tân Mão (1951), quy tụ được Tăng chúng cả ba trường trên và các nơi lần lượt đến tu học.

Phật Học Đường Nam Việt Chùa Ấn Quang ra đời từ một hình thức nhỏ bé lợp bằng lá tàu, với những chiếc giường tre xiêu vẹo, nằm trong khuôn đất chật hẹp từ từ lớn lên theo thời gian cho đến nay được khang trang mỹ lệ đều nhờ công đức của Hòa Thượng Giám Đốc. Chính nơi đây đã đào tạo thành những Tăng tài ra đảm đang Phật sự hiện nay. Lớp đầu tiên ra trường được sáu vị: Thầy Huệ Hưng, Bửu Huệ, Thiền Tâm, Tắc Phước, Tịnh Đức, Đạt Bửu. Lớp thứ hai ra trường được chín vị: Thầy Thiền Định, Huyền Vi, Thiện Giải (Thuyền Ấn), Thanh Từ, Hoàn Quan, Từ Thông, Quảng Long, Chánh Tiến, Thanh Phong. Lớp thứ ba ra trường khá nhiều như: Thầy Thắng Hoan Phước Hảo, Minh Thành, Trí Quảng, Thiện Nghi, Thiện Bình, Đức Niệm, Liễu Minh, Giải Kinh, Chơn Điền, Nguyên Ngôn, Huệ Thới (Minh Hạnh), Thiện Phát… đây là kết quả tốt đẹp do Ban Giám Đốc Phật Học Đường Nam Việt đào tạo, nhất là công lao của Hòa Thượng Giám Đốc.

Sau Phật Học Đường Nam Việt là Phật Học Viện Giác Sanh năm 1960, Phật Học Viện Huệ Nghiêm năm 1964 đều do Hòa Thượng sáng lập. Đặc biệt của Phật Học Viện Huệ Nghiêm là từ một bãi tha ma hoang vắng của An Dưỡng Địa biến thành trường Trung Học chuyên khoa rồi tiến lên Viện Cao Đẳng Phật Học. Mặc dù tuổi già sức yếu, Hòa Thượng vẫn giữ chức Giám Luật cho trường nầy đến ngày theo Phật.

Đi song song với trường Tăng, Hòa Thượng còn làm Giám Đốc Phật Học Ni Trường Từ Nghiêm, sau dời về chùa Dược Sư là Phật Học Ni Trường Dược Sư, do Hội Phụ Nữ Phật Tử hiến cúng. Ở đây cũng đào tạo thành đạt một số Ni tài đáng kể, hiện đảm đang Phật Sự ở nhiều nơi.

Ngoài các Phật Học Đường, Hòa Thượng còn mở các khóa huấn luyện Trụ Trì bên Tăng tại chùa Pháp Hội và bên Ni tại chùa Dược Sư và Trụ Sở Như Lai Sứ Giả đặt tại chùa Tuyền Lâm. Nhờ thế nên Nghi Thức truyền Tam Qui Ngũ Giới, Nghi Thức An Cư Kiết Hạ, Nghi Thức Kiết Giới Tràng, Nghi Thức Truyền Giới Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ Tát… được các chùa miền Nam ứng dụng có lề lối như nhau do Ngài sưu tập ấn hành.

Hòa Thượng đã giảng dạy Giáo lý nhiều nơi cho các Hội Đoàn Phật Tử và các khóa huấn luyện ngay từ khi còn đi học, tất cả đều quý mến phát Đại Bồ Đề Tâm. Về già, Ngài ít giảng kinh thuyết pháp, nhưng nếu ai có phước duyên được gặp Ngài hoặc nghe danh hiệu Ngài đều ngưỡng mộ phát lòng Bồ Đề và cảm thấy bớt khổ. Do đó, nhiều Thượng Tọa ngoài nước cũng cho đệ tử hướng về Ngài mà cầu thọ giới. Phật Tử có pháp danh bên nam chữ Minh, bên nữ chữ Diệu đứng đầu đều chịu ảnh hưởng nơi Hòa Thượng.

Hàng năm tại Tổ Đình Ấn Quang đều thiết lễ truyền Qui Giới vào Rằm Tháng Tư. Rằm Tháng Bảy và mười bảy Tháng 11 Âm lịch (Vía Phật Di Đà) để tiếp độ các giới Phật Tử.

Về mặt tổ chức Giáo Hội:

Hòa Thượng nương theo quy chế Giáo Hội Tăng Ni chỉnh lý vận động thành lập Giáo Hội Tăng Già Nam Việt. Kết quả phiên họp ngày 5-6-1951 tại chùa Hưng Long Chợ Lớn, Đại Lão Hòa Thượng Đạt Thanh làm Pháp Chủ, Thượng Tọa Đạt Từ làm Tri Sự Trưởng, Thượng Tọa Nhật Liên làm Tổng Thư Ký của Ban Lãnh Đạo Lâm Thời. Năm 1952, Hòa Thượng hướng dẫn phái đoàn miền Nam tham dự Đại Hội Thống Nhứt tại chùa Quán Sứ Hà Nội và được Đại Biểu ba miền suy cử Ngài làm Trị Sự Trưởng Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc.

Năm 1953, vì có sự thay đổi nội bộ của Giáo Hội miền Nam nên Hòa Thượng phải kiêm nhiệm chức Tri Sự Trưởng Giáo Hội Tăng Già Nam Việt thay cho Thượng Tọa Huyền Dung đi Anh Quốc du học.

Năm 1965, làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tài Chánh Kiến Thiết GHPGVNTN. Năm 1969, được Giáo hội đặc phong Hòa Thượng. Năm 1973, được suy tôn Phó Tăng Thống GHPGVNTN cho đến ngày viên tịch.

Về phần truyền giới cho Tăng Ni:

Kể từ năm 1951, Hòa Thượng đã làm Giới Sư và dạy Luật cho nhiều Trường Hạ như ở chùa Giác Nguyên, chùa Pháp Hội… Đến năm 1957 và 1958 làm Yết Ma Đại Giới Đàn Tỳ Kheo tại Phật Học Đường Nam Việt. Năm 1962, làm Đàn đầu Hòa Thượng Đại Giới Đàn cũng tổ chức tại chùa Ấn Quang. Năm 1964, làm Yết Ma Đại Giới Đàn tại Việt Nam Quốc Tự. Năm 1966, làm Giáo Thọ Đại Giới Đàn tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm. Năm 1968, làm Giáo Thọ Đại Giới Đàn tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Năm 1969, làm Yết Ma Đại Giới Đàn tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm. Năm 1970, làm Giáo Thọ Đại Giới Đàn Vĩnh Gia Đà Nẵng. Năm 1972, làm Hòa Thượng Đàn Đầu Đại Giới Đàn tại chùa Phật Ân Mỹ Tho. Năm 1974, làm Hòa Thượng Đàn Đầu Đại Giới Đàn tại Long Xuyên. Đồng thời những giới đàn của Ni Bộ đều thỉnh Ngài làm Giới Sư. Vì thế, có thể nói hầu hết Tăng Ni miền Nam về Giới Thân Huệ Mạng đều từ nơi Hòa Thượng mà phát sanh. Ngài còn soạn cho Tăng Ni những tài liệu rất quý báu như Tài Liệu Trụ Trì, Giới Đàn Tăng, Tỳ Kheo Giới Kinh, Nghi Thức hằng thuận Quy Y, Ý nghĩa về nghi thức Tụng Niệm, Nhân duyên, Phật Kiết Giới…

Về phần Kiến Thiết:

Hòa Thượng sáng lập Phật Học Đường Nam Việt, Phật Học Viện Giác Sanh, Phật Học Ni Trường Dược Sư, Trường Bồ Đề Chùa Giác Ngộ, Trường Bồ Đề Huệ Đức (tại Giác Sanh và An Dưỡng Địa), Hãng Vi Trai Lá Bồ Đề Phú Thọ, Cô Nhi Viện Diệu Quang, Lò Thiêu An   Dưỡng Địa, Tháp Phổ Đồng, Đại Tòng Lâm Phật Giáo…

Những công trình xây dựng trên chịu ảnh hưởng văn hóa Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan, Nhật Bản… là do sự phối hợp của Hòa Thượng sau những lần tham dự Đại Hội Phật Giáo Thế Giới và thăm viếng Thánh Tích như Ấn Độ, Hồi Quốc, Tích Lan, Thái Lan, Ai Lao, Campuchia, Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông mà ra vậy.

V.  THỜI NẰM BỆNH:

Giữa năm 1974, Hòa Thượng bệnh nặng phải vào Bệnh Viện Trung Chánh điều trị, sau dời qua Dưỡng Đường Hoàn Mỹ đường Trương Minh Giảng Sài Gòn, nhờ Bác Sĩ Trần Lữ Y săn sóc. Cơn bệnh nặng đã qua, Hòa Thượng biết sức khỏe của mình không thể bình phục như xưa được.

Mọi cơ sở đã xây dựng như ngôi già lam Ấn Quang e thiếu người bảo quản. Hòa Thượng ra lệnh cho thị giả đánh thơ mời các vị học trò của mình vào Dưỡng Đường và cho rước Thượng Tọa Trí Tịnh đến chứng minh để bàn lập Hội Đồng Quản Trị Tổ Đình Ấn Quang. Cả thảy mười hai vị có mặt đều đồng tình nhận lãnh trách nhiệm. Kết quả buổi họp ngày 20-11-1974 tại Dưỡng Đường Hoàn Mỹ: Thượng Tọa Thích Huệ Hưng lãnh chức Tổng Lý, Thượng Tọa Thích Bửu Huệ làm Phó Tổng Lý đặc trách nội vụ. Thượng Tọa Thích Thiền Tâm, Thượng Tọa Thích Thanh Từ làm Kiểm Sự, Đại Đức Thích Minh Thành làm Thư Ký, Đại Đức Thích Trí Quảng làm Thủ Bổn. Đại Đức Thích Minh Hạnh (Huệ Thới) làm Quản Sự… tất cả đồng cung thỉnh Hòa Thượng làm chứng minh, Thượng Tọa Thích Trí Tịnh làm Cố Vấn cho Ban.

Đến ngày 07-12-1974, cũng trong Dưỡng Đường Hoàn Mỹ, Hòa Thượng cho mời Ông Chưởng Khế Nguyên Bích Lưu, Thượng Tọa Thích Bửu Huệ cùng toàn Ban để chứng thực Tờ Ủy Quyền các cơ sở và Tài Sản trực thuộc Tổ Đình Ấn Quang cho Thượng Tọa Thích Bửu Huệ. Hòa Thượng và Thượng Tọa Bửu Huệ ký tên vào Tờ Ủy Quyền trước mặt Ông Chưởng Khế. Đồng thời Hòa Thượng cũng có để lại một chút thơ, đoạn kết như sau: “Tôi ly gia cắt ái trên bốn mươi năm, tấm lòng hướng về đạo giải thoát cho mình, cho gia quyến và chúng sanh. Nên những tài sản do tôi tạo lập trong sự nghiệp hoằng dương Phật Pháp không được kể là tài sản riêng để di truyền cho con cháu và gia đình.

Tôi làm chúc thơ nầy là muốn rằng gia đình tôi cũng như con cháu nếu có, không được tranh chấp và phủ nhận các ý muốn cuối cùng của tôi.

Tôi cũng muốn rằng Hội Đồng Quản Trị các cơ sở Ấn Quang và trực thuộc tiếp tục duy trì theo đường lối như tôi đã vạch sẵn, và như đó mà phát triển hơn lên để giúp cho Chư Tăng tu học, hầu khỏi phụ lòng tôi mong muốn”.

Viện Chủ Chùa Ấn Quang
Kiêm Giám Đốc các cơ sở trực thuộc
Hòa Thượng THÍCH THIỆN HOA
tục danh HỨA KHẮC LỢI

Đọc đoạn kết thúc thơ, chúng ta thấy rõ lòng thiết tha vì Đạo Pháp của Hòa Thượng thật không bờ bến. Bao nhiêu việc làm của Hòa Thượng đều hướng về hoằng dương Phật Pháp, tiếp dẫn hậu lai, chớ không vì sự riêng tư nào khác.

VI. ĐỨC HẠNH:

Hòa Thượng là người siêng năng, cần mẫn, nhu hòa, nhẫn nhục, thương Chúng và hết lòng phụng sự Tam Bảo. Ngày từ lúc mới xuất gia, Ngài đã đem hết tâm lực mình để phục vụ Thầy Tổ và đại chúng. Nếu gặp hoàn cảnh trái ngang, gặp người Tăng Thượng Mạn, Ngài đều nhẫn hết và cầu nguyện cho họ sớm phát tâm. Những công việc nặng nhọc, Ngài không bao giờ từ chối. Ra Trung, Ngài cũng hết lòng phục vụ Chúng Tăng. Ở các chùa hẻo lánh miền Bắc, Ngài cũng tận tâm làm công quả. Ngài không phân biệt Tông phái, kỳ thị địa phương, vì xem tứ chúng đều là quyến thuộc. Ngài không thấy có gì khác lạ giữa Nam, Trung, Bắc cho đến các chủng tộc màu da… Ngài đã viết: “Có một điều đặc biệt HÒA tôi không phân biệt Nam, Trung, Bắc. Chỉ thấy có một Việt Nam. Tất cả là anh em, không phân màu da chủng tộc, xứ sở, thấy chỗ nào cũng chỗ mình ở (tam giới vi gia). Ngoài không nói, trong tâm không nghĩ phân biệt, bình thản tự nhiên, vì anh em một nhà. Nhờ học một Thầy, ở chung một Trường cả Nam, Trung, Bắc nên sau nầy dễ thống nhứt”. (Trích tiểu sử Hòa Thượng Đàn Đầu năm 1974 tại Long Xuyên do chính tay Hòa Thượng viết). Điển hình Ấn Quang là nơi đặc biệt Hòa Thượng đã biểu dương được tinh thần cao quý ấy.

Với tư cách hòa ái kính nhường, Ngài đã được toàn chúng quý mến dù gặp hoàn cảnh nào, chúng ta không thể bắt gặp trên nét mặt Ngài lộ vẻ bất bình hay cau có. Nếu thấy người nào có lỗi, Ngài khẽ bảo riêng, không bao giờ xây dựng trước đám đông hay nói cho người ngoại cuộc biết.

Qua những cử chỉ trên, dù ai có bướng bỉnh đến đâu cũng phải cúi đầu sám hối. Với giọng nói nhẹ nhàng, hòa dịu của Ngài, khiến ai nghe cũng cảm mến. Cặp mắt sáng tràn trề từ bi của Ngài, nhìn đến ai dường như chan rải rước cam lồ rưới mát cả cõi lòng của họ.

Hòa Thượng chủ trương làm hơn nói, cho nên trong mọi buổi họp, Ngài phát biểu ý kiến rất ít, chỉ nói khi nào rất cần. Ngài âm thầm làm, lặng lẽ làm, quyết chí làm cho nên việc làm nào cũng thành công. Vì thế, Ngài thường nhắc nhở Chúng Tăng bằng hai câu thơ này:

Tịnh khẩu thâm tàng thiệt
Thân an xứ xứ an

Nghĩa là:
Miệng lặng lưỡi hằng giấu
Thân an chốn chốn an.

Ngài còn là người trì luật đệ nhứt của miền Nam. Nhưng theo tinh thần An Lạc Hạnh, Ngài soạn Giới Đàn Tăng và chế định cách thức sinh hoạt của Tứ Chúng là người đầu tiên phục hưng truyền giới Bát Quan Trai hàng tuần vào ngày Chủ Nhật tại chùa Ấn Quang Sài Gòn, được rất nhiều Phật tử ngưỡng mộ phát tâm thực hành từ trước tới nay.

Tóm lại, về đức hạnh của Hòa Thượng, chúng ta không sao kể hết, Ngài quả là tàng lọng che mát Tăng Ni. Ngài là nước biển cam lồ để mặc tình chúng sinh uống no và tắm mát. Ngài là tấm gương sáng để mọi người soi chung.

VII.  VIÊN TỊCH:

Hòa Thượng nằm bệnh gần ngót bốn năm. Trong khoảng thời gian đó, cũng có lúc Ngài khỏe mạnh an ổn, song vì đi đứng không tự do nên đều coi là bệnh. Ngày bốn tháng mười hai năm Đinh Tỵ (12-01-1978), Hòa Thượng đòi đi thăm chùa Giác Sanh. Thị giả vâng lời sửa sang xe đưa Ngài đi. Thăm xong, về đến chùa Hòa Thượng bị cảm nặng. Từ đây bệnh càng ngày càng tăng, song tinh thần Ngài vẫn tỉnh. Một hôm Hòa Thượng đinh ninh dạy bảo các đệ tử trong lúc dọn thức ăn: “Biết các pháp là như huyễn thì đừng khen cũng đừng chê, cũng không nên nói ngon hay dở. Vì còn khen chê là còn vọng chấp phân biệt trong lòng đối đãi; và Ngài nói với các vị Ni có mặt rằng Tổ A Nan có công đức rất lớn đối với Ni giới, nên Chư Ni cần phải thờ kính Ngài”. Cho đến ngày hai mươi chín tháng mười hai năm Đinh Tỵ, Thượng Tọa Tắc Phước sang thăm Hòa Thượng, Ngài hỏi: “Mấy hôm rồi Thầy đi đâu?” Thượng Tọa Tắc Phước thưa: “Con ở đây hầu Hòa Thượng không dám đi đâu”. Thượng Tọa Tắc Phước muốn tham dò trí nhớ của Hòa Thượng nên hỏi: “Hòa Thượng nhớ Đức Tăng Thống năm nay bao nhiêu tuổi không ?” Hòa Thượng đáp: “Một trăm hai tuổi (102)”. Quả là Ngài vẫn còn tỉnh sáng không mê muội. Sáng ngày mồng một tháng Giêng năm Mậu Ngọ (07-02-1978), Hòa Thượng bắt đầu mệt từ từ, đến 6 giờ 30 chiều Ngài thâu thần tịch diệt. Sau khi nhắm mắt theo Phật mà gương mặt Ngài vẫn còn tươi tắn, thân thể Ngài vẫn mềm mại cho đến khi nhập quan.

Tết năm nay, suốt bảy ngày tang lễ, Tăng, Ni, Phật Tử ba miền Nam, Trung, Bắc trong nước cũng như ngoài nước hoặc thân hành đến phúng điếu, hoặc đánh điện phân ưu và những nơi quen biết đều có dự lễ tiễn đưa Ngài đến nơi trà tỳ viên mãn.

VIII.  TỔNG KẾT:

Ở gia đình, Ngài là người con hiếu, người bạn đạo hạnh, người cha hiền đức, vì là người tín đồ trung kiên nên Ngài cảm hóa được toàn thể gia đình.

Khi xuất gia, Hòa Thượng tỏ ra rất xứng đáng đảm đang trọng trách của bề trên giao phó. Những trách nhiệm gì các Tổ giao cho Ngài, Ngài đã làm viên mãn.

Hòa Thượng là bậc Thầy mẫu mực của hàng Tăng Ni. Qua cử chỉ, hành động, ngôn ngữ của Ngài, không một động tịnh nào mà chẳng đáng cho chúng Tăng học theo. Ngài đã trải hết lòng từ để thương yêu Tăng Ni, đã đem hết sức lực mình kiến thiết các cơ sở để lại cho Tăng Ni.

Hòa Thượng cũng là ông cha lành đối với tín đồ. Bao giờ Ngài cũng xót thương, không phân biệt sang hèn và chỉ dạy không biết mỏi mệt. Nét mặt vui tươi, đôi mắt dịu hiền, giọng nói nhỏ nhẹ, hòa nhã của Ngài đã an ủi biết bao người đau khổ.

Hòa Thượng đã làm tròn mọi bổn phận, làm xứng đáng với trọng trách của mình. Hình ảnh của Ngài cao cả quá thật, đáng làm gương sáng cho đàn hậu tấn noi theo.

Hòa Thượng mất đi, tức Giáo Hội mất đi một bậc lãnh đạo sáng suốt, Phật Giáo mất đi một bậc cao Tăng, thiết tưởng toàn thể Tăng Ni, Tín đồ không ai là người không thương tiếc.

NAM MÔ CHỨNG MINH SƯ BỔ TÁT MA HA TÁT


Nguồn: Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Tổ Đình Ấn Quang, tháng 3/ 1978

Hiển thị thêm
Back to top button