Tịnh Minh soạn dịch: Một thoáng sân tâm buông ác ngữ – Khổ đau oan trái kết bao đời

Tịnh Minh soạn dịch theo Pháp Thoại Pháp Cú

Thuở xưa, khi Bra-ma-đát-ta (Brahmadatta) trị vì nước Ba-la-nại, có một thân vương húy Tú Phát (Kesava) dứt khoát từ bỏ ngôi vị, xa lánh thế trần, sống đời phạm hạnh. Năm trăm môn nhân quyến thuộc thấy vậy cũng giã từ quyền thế cao sang, theo gương thân vương lên đường khổ tu hành đạo. Sau đó thân vương rất được quần chúng tin yêu, kính phục. Ka-pa (Kappa), quan thủ khố của thân vương cũng theo chủ nhân làm đệ tử. Ẩn sĩ Tú Phát cùng môn đệ vào Hy-mã-lạp sơn khổ tu tám tháng. Khi mùa mưa đến, họ cùng nhau về thành Ba-la-nại khất thực những vật dụng cần thiết như muối, dấm v.v… Quốc vương rất vui mừng đón tiếp ẩn sĩ, chấp thuận phái đoàn lưu trú tại hoa viên hoàng cung qua bốn tháng mưa, và nhà vua hứa sáng tối nào cũng đích thân đến vấn an, chăm sóc ẩn sĩ.

Nhóm môn đệ tạm trú được vài hôm thì cảm thấy khó chịu, ray rứt trong lòng vì những tiếng ngựa hí, voi gầm. Họ đến thưa với Đạo sư Tú Phát:
– Bạch Thầy, phiền quá! Chúng con phải đi nơi khác mới an định được thân tâm.
– Đi đâu bây giờ, quý huynh đệ?
– Trở lại vùng Hy-mã- lạp sơn, bạch Thầy.
– Đâu được! Quốc vương đã hứa cho chúng ta an trú tại đây qua hết mùa mưa. Nửa chừng bỏ đi khó coi lắm!
– Nhưng chúng con không thể lưu trú lâu hơn nữa, bạch Thầy! Chúng con sẽ chọn một nơi gần đây để tiện việc liên hệ với Thầy.

Họ đảnh lễ và tạm biệt Đạo sư, chỉ còn Ka-pa ở lại chăm sóc và thân cận với Thầy.

Sáng hôm sau quốc vương đến vấn an Đạo sư, không thấy các ẩn sĩ, bèn hỏi:
– Ủa!… Môn đồ đi đâu hết rồi?
– Họ nói ở đây bất an quá nên họ đã về lại vùng Hy-mã-lạp sơn rồi, tâu đại vương.

Ít lâu sau, Ka-pa cũng nản lòng, và mặc dù Đạo sư Tú Phát hết lời thuyết phục môn đệ mình đừng bỏ đi, nhưng cậu vẫn nằng nặc xin tạm biệt Thầy, trở về núi rừng với huynh đệ khổ hạnh.

Đạo sư Tú Phát cứ bận tâm về cách sinh hoạt và nếp khổ luyện của nhóm môn sinh mà  đâm ra xao xuyến, bức bách trong lòng. Quốc vương cho mời y sĩ đến chữa trị cho Đạo sư, nhưng bịnh trạng không mấy khả quan. Cuối cùng, Tú Phát gặp quốc vương, tha thiết tâu rằng:
– Tâu đại vương! Đại vương muốn bần đạo chóng được khỏe mạnh lắm phải không?
– Đúng thế, Đạo sư! Giá mà ta có phép mầu kỳ diệu thì ta khôi phục sức lực cho Đạo sư ngay giờ phút này.
– Đa tạ đại vương. Nếu đại vương muốn bần đạo được thân tâm an lạc, bịnh tật tiêu trừ thì cho bần đạo về lại núi rừng, công phu tu tập với môn đệ của bần đạo.
– Tốt lắm, Đạo sư!

Quốc vương truyền bốn cận thần, do Na-ra-đa (Naràda) chỉ đạo, khiêng Tú Phát đến gặp đồ chúng và để tâm theo dõi bịnh tình của ẩn sĩ.

Được tin Đạo sư sắp về, Ka-pa liền thông báo cho tất cả huynh đệ đều biết. Họ cùng nhau hân hoan đến đảnh lễ, vấn an, và dâng nhiều loại hoa quả đặc biệt cho Đạo sư. Ngay lúc đó, ngay lúc thâm tình sư đệ được chan hòa theo ánh mắt nụ cười, theo tâm tư nguyện vọng của những người viễn ly thế nghiệp, tịch tịnh tâm hồn thì Đạo sư Tú Phát khỏe mạnh lại ngay: đầu óc linh hoạt, da dẻ như vàng ròng.

Sau đó quốc vương cứ thắc mắc:
– Ta ưu ái phái đoàn ẩn sĩ như thế mà họ vẫn ra đi, vẫn nghi ngờ thiện chí của ta. Làm sao ta chiếm được niềm tin yêu của họ. Chỉ còn cách duy nhất là có được một ái nữ thuộc dòng tộc Đức Thế Tôn, và như vậy thì họ sẽ coi ta là bà con quyến thuộc với đấng Đại Giác. Quốc vương liền truyền lệnh gởi văn thư đến hoàng tộc Thích Ca (Sakyas) với nội dung cầu

hôn một nương tử xinh đẹp. Nhà vua còn phái sứ thần tìm hiểu tiểu nương kia thuộc dòng công khanh nào.

Hoàng tộc Thích Ca nhóm họp, xem xét vấn đề và nhận định rằng:
– Tên hôn quân bạo chúa đó là kẻ thù không đội trời chung của chúng ta. Nếu từ chối yêu sách, hắn sẽ có cớ cất binh tàn sát hoàng triều. Vả lại hắn đâu ngang hàng đẳng cấp với vương tộc nhà mình, biết làm sao đây! Hoàng thân Đại Danh (Mahànàma) tự nguyện đứng ra tháo gỡ rắc rối:
– Ta có một thiếu nữ đang độ đương thì, cực kỳ xinh đẹp, tên là Va-xa-ba-kha-ti-da (Vàsabhakhattiyà), con gái đầu lòng của một tiện nữ nô lệ khỏe mạnh, tháo vác. Chúng ta đem nộp cho hắn.

Sau đó thân vương đón tiếp phái đoàn sứ giả, trịnh trọng thưa rằng:
– Hy hữu thay! Tiểu quốc chúng tôi được diễm phúc kết thân với quý quốc, được vinh dự dâng cho đại vương một công nương tú lệ, đa tài.
– Tên gì?… Con ai?… Trưởng đoàn sứ giả hỏi với giọng đầy quyền uy, thế lực.
– Dạ thưa… tôn nữ cách cách của hoàng thân Đại Danh, huynh đệ của Đức Thế Tôn đấy ạ! Nàng đa tài, xinh đẹp và rất có hiếu với hoàng thân quốc thích.
– Như vậy thì tốt lắm!

Sau đó phái đoàn sứ giả cung tay cáo từ, trở về hoàng cung tâu lại mọi việc với quốc vương.

Được tin sảng khoái, quốc vương liền ra khẩu dụ đem kiệu xe rước công nương về hoàng triều cho người gấp. Nhưng đám trung thần của quốc vương lắm mưu nhiều kế, bán tín bán nghi; sợ hoàng tộc Thích Ca chơi trò tráo trở, đem nộp ả dân đen tiện tỳ nào đó thì nguy! Họ bàn với quốc vương gởi văn thư yêu cầu hoàng thân Đại Danh cùng ăn chung bàn với công nương. Đại Danh chấp thuận, cho người trang điểm tiểu thư xiêm y rực rỡ, dung mạo diễm kiều, rồi đưa nàng đến quan phủ cùng dự yến tiệc; và sau đó trao tiểu nương cho sứ giả. Nàng được đưa về Xá-vệ và được quốc vương hết lòng yêu quý, phong làm hoàng hậu, cai quản 500 cung phi, mỹ nữ.

Một năm sau, hoàng hậu hạ sanh được một hoàng tử, trông khôi ngô tú dị, toàn thân lấp lánh như ánh vàng ròng. Quốc vương vô cùng hưng phấn, truyền lệnh thái giám báo tin cho thái hậu biết là hoàng hậu, công nương của hoàng thân Đại Danh thuộc hoàng phái Thích Ca đã sanh được một hoàng tử, và thỉnh thái hậu đặt quý danh cho cháu. Thái hậu được tin, lòng lâng lâng cảm kích, thầm nghĩ hoàng hậu là người đoan trang thùy mị, trung hậu đảm đang, được thần dân tôn vinh mến phục; nay lại sanh cho quốc vương một hoàng tử kỳ vĩ, hẳn là được quốc vương sủng ái tuyệt đối, vậy ta nên đặt tên cháu là Va-la-ba (Vallabà), có nghĩa là tôn quý; nhưng thái giám đã trọng tuổi, hơi nặng tai, nghe nhầm ra Vi-đu-đa-ba (Vidùdabha), và tâu với quốc vương rằng thái hậu rất tâm đắc với danh xưng này. Thoạt đầu quốc vương lấy làm lạ, vì húy danh chả có ý nghĩa gì cả. Tên hoàng tử là đại diện cho sơn hà xã tắc mai sau, vậy mà nghe ra rất ngớ ngẩn; hay biết đâu đó là vương hiệu xa xưa của hoàng triều, quốc vương đành phải âm thầm chấp thuận. Thế là hoàng tử được vinh hạnh mang tên Vi-đu- đa-ba, và được phong chức tổng lãnh binh khi còn là một cậu bé. Quốc vương tin rằng vai trò của Vi-đu-đa-ba ở hoàng triều hẳn làm đẹp lòng Đạo sư lắm.

Vi-đu-đa-ba trưởng thành trong nhung lụa và quyền lực. Khi lên bảy tuổi, thấy các công tôn khác được ông ngoại cho nhiều trò chơi trẻ em như ngựa, voi, lạc đà, khỉ, gấu v.v…, hoàng tử lên tiếng hỏi mẹ:
– Mẫu hậu ơi, các công tử kia được ông ngoại cho nhiều quà đẹp quá! Con không có gì cả! Mẫu hậu không có cha mẹ sao? Con không có ông bà ngoại sao?
– Con yêu quý của mẹ, ông bà ngoại của con là hoàng thân dòng Thích Ca, ở cách đây xa lắm, nên không tiện gởi quà cho.

Đến năm mười sáu tuổi, hoàng tử lại hỏi:
– Thưa mẫu hậu, con muốn về quê ngoại thăm ông bà và gia phong mẫu hậu.
– Này, con yêu quý của mẹ, con còn nhỏ, phần đường sá xa xôi hiểm trở, đi lại bất tiện lắm. Con nên nỗ lực luyện văn múa võ, cưỡi ngựa bắn cung cho thật giỏi để mai sau thay phụ hoàng mà giữ gìn xã tắc, nghe con!

Không hài lòng với những lời tâm huyết của mẹ, hoàng tử vẫn khăng khăng đòi về thăm quê ngoại. Cuối cùng mẫu hậu chấp thuận lời đề nghị của con. Chàng báo tin cho phụ hoàng và lên đường với một đám tùy tùng hùng hậu. Va-xa-ba-kha-ti-da liền gởi mật thư báo cho hoàng thân biết trước mọi việc, và vương triều Thích Ca cố tình đưa đám công tôn trai trẻ về thôn làng nghỉ mát. Do đó, khi Vi-đu-đa-ba đến thành Ca-tỳ-la (Kapilavastu), họ tập trung tại hoàng cung khách đường và hoàng tử được tiếp đón tại đó. Họ nói:
– Hoàng tử, đây là lịnh tôn, đây là lão bá bá, đây là lão đại thúc… của hoàng tử.

Chàng phải đi giáp vòng, thi lễ từng người nhưng không một ai đáp lễ lại. Thấy bị xúc phạm, chàng nghiêm giọng hỏi:
– Tại sao không ai đáp lễ ta? Nhóm hoàng tộc đáp:
– Hoàng tử, các công tôn trai trẻ như hoàng tử đã đi nghỉ mát hết rồi.

Tuy nhiên, chàng vẫn được tiếp đón trọng hậu. Và sau vài hôm, chàng cáo từ ra về với phái đoàn.

Bấy giờ có một phụ nữ nô lệ đem sữa và nước ra rửa chỗ ngồi của Vi-đu-đa-ba với một tay che mũi, tỏ vẻ khinh khi, gớm ghiếc và nói:
– Đây là chỗ ngồi của thằng con mụ nô lệ Va-xa-ba-kha-ti-da!

Ngay lúc đó, một cận thần trở lại lấy chiếc khăn để quên, thấy nghe mọi chuyện, và sau giây lát tìm hiểu mới nắm được ngọn nguồn của chốn bí sử thâm cung. Té ra mẫu hậu tôn quý kia đích thị là đứa con hoang của mụ gia nô trong cung phủ của lão hoàng thân Đại Danh thuộc dòng tộc Thích Ca. Gã cận thần liền thông báo cho đoàn vệ binh biết, và thế là nộ khí bốc lên ngùn ngụt. Khi Vi-đu-đa-ba biết rõ sự thật đau lòng, chàng nắm tay đấm thẳng lên trời và lớn tiếng thề độc:
– Hôm nay dòng giống Thích Ca rửa chỗ ngồi của ta bằng sữa và nước, mai kia lên ngôi ta sẽ rửa chỗ đó bằng máu họng của bọn chúng.

Khi phái đoàn sứ giả về tới Xá-vệ, họ tâu rõ mọi việc tai nghe mắt thấy với đại vương. Nhà vua vô cùng phẫn uất trước hành vi khinh suất, tráo trở của hoàng thân, và hạ lệnh truất phế tước hiệu hoàng hậu, đày mẹ con xuống hàng nô lệ như xưa.

Vài hôm sau, quốc vương đến gặp Thế Tôn, thưa rằng:
– Bạch Thế Tôn, ta rất đau lòng phải nói ra điều này. Hoàng tộc Thế Tôn vọng ngôn thất tín, lừa đảo gian manh, đã trao cho ta con gái của một tiện nữ nô lệ mà dám bảo là tôn nương cách cách của hoàng thân Đại Danh. Ta đã tước hết danh hiệu cao quý của hoàng triều ban tặng, đày mẹ con hoàng hậu xuống hàng nô lệ cho phù hợp với triều cương quốc pháp.
– Tâu đại vương, như vậy thì e bất công, khe khắt với hoàng tộc Thích Ca. Va-xa-ba-kha-ti-da được tấn phong cách cách tại tôn phủ của hoàng thân Đại Danh, thuộc dòng võ tướng, thế là con của hoàng thân. Còn Vi-đu-đa-ba là con của đại vương, là hoàng tử chánh hiệu; vậy thì gia phong mẫu hệ có dính dáng gì với tôn tộc đương triều.

Nghe lời biện giải thâm trầm, hữu lý và nhân hậu của Thế Tôn, quốc vương an tâm, hoan hỷ, phục chức hoàng hậu và hoàng tử cho hai mẹ con.

Khi Vi-đu-đa-ba lên ngôi, thay thế phụ hoàng phát huy thế lực, tân vương liền nghĩ đến cái nhục rửa ghế năm xưa mà nghiến răng tuyên bố:
– Ta sẽ tàn sát dòng tộc Thích Ca cho chúng biết thế nào là uy quyền và danh dự.

Quốc vương lên đường thân chinh với một đoàn quân hùng hậu: binh khí lấp lánh, giáp trụ oai hùng.

Sáng hôm đó, như thường lệ, Đức Thế Tôn thiền định trong tịnh thất, trải tâm từ bi quán chiếu thế gian, thấy dòng tộc Thích Ca sắp đến hạn tuyệt diệt. Động lòng bi mẫn, Ngài thầm nhủ:
– Nguy khốn thay! Ta không thể không để tâm che chở thân tộc hoàng triều.

Và sau một vòng thiền hành, khất thực, Thế Tôn trở về tịnh thất với tâm tư hóa giải hận thù. Đêm đó, bằng thần lực nhiệm mầu, Ngài đến sát biên giới giữa thành Ca-tỳ-la và vương quốc của Vi-đu-đa-ba, thiền định dưới một tàng cây nho nhỏ.

Trưa hôm sau, trên đường phục thù rửa hận, Vi-đu-đa-ba chợt thấy Đức Thế Tôn đang nhập định sừng sững như núi Tu-di dưới tàng cây thưa lá. Động lòng kinh ngạc, nhà vua cung kính đảnh lễ đấng Đại Giác, và nói:
– Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn không thiền định hay nghỉ mát dưới tàng cây đa cổ thụ bên vương quốc của trẫm? Ở đây nóng bức quá!
– Cảm ơn đại vương quan tâm! Bóng râm dòng tộc của ta đủ che mát cho ta rồi!

Ngầm hiểu Thế Tôn hẳn đã đến với mục đích bảo bọc thân tộc hoàng triều, Vi-đu-đa-ba ngỏ lời tạm biệt Ngài và lui binh về Xá-vệ. Sau đó Thế Tôn cũng về lại Trúc Lâm.

Nhưng mối hận truyền kiếp với dòng tộc Thích Ca cứ ray rứt tâm can, lảng vảng trong đầu, khiến quốc vương phải cất binh rửa nhục lần thứ hai. Lần này cũng thấy Thế Tôn uy nghi bất động dưới tàng cây như lần trước, và Vi-đu-đa-ba lại phải quay về. Lần thứ ba cũng thế. Đến lần thứ tư, thấy ác nghiệp của dòng tộc Thích Ca quá đỗi sâu dày, đã một thời đổ thuốc độc xuống sông vì tranh nhau ngọn nước vào ruộng, tưới tắm hoa màu, Thế Tôn đành phải im lặng, để cho oan khiên ác trược vận hành theo duyên nghiệp của nó.

Vi-đu-đa-ba tiến quân với quyết tâm tàn sát dòng tộc Thích Ca. Và lạ thay, dòng tộc của đấng Đại Giác Thế Tôn sẵn sàng thuận theo số kiếp điêu tàn, mặc dù họ được coi là những binh sĩ dạn dày sương gió, kinh nghiệm chiến trường, múa kiếm bắn cung cực kỳ điêu luyện. Họ đã bị quân lính của Vi- đu-đa-ba tàn sát đến từng em bé còn nằm nôi hay đang ngậm vú mẹ, chỉ tha mạng cho những ai thuộc tôn phủ hoàng thân Đại Danh. Thế là quốc vương Vi-đu- đa-ba đã trừ được mối hận năm xưa, đã rửa sạch chỗ ngồi của mình bằng máu huyết của quân khinh bạc. Dòng tộc Thích Ca bị tru diệt đến tận gốc.

Hoàng thân Đại Danh được quốc vương Vi-đu-đa-ba, cháu ngoại, cung kính đưa về hoàng triều, tiếp đãi nồng hậu. Tới bữa điểm tâm, hoàng thân tự nghĩ:
– Thế nào ta cũng sẽ được mời ăn sáng với hắn. Bá quan văn võ hoàng triều thà tán thân thất mạng chứ quyết không ăn chung bàn với con bọn nô lệ.

Thấy ngoài vườn thượng uyển có một hồ sen nên thơ, hoa lá đong đưa, hương thơm ngào ngạt, hoàng thân ngỏ ý:
– Quốc vương, ta muốn ra bờ hồ dạo mát một chút.
– Hoàng thân tự nhiên, giang sơn này vĩnh viễn là xã tắc của hậu duệ hoàng thân. Mong hoàng thân an tâm, thoải mái, và hãy quên đi những ấn tượng không vui.

Nhìn dòng nước trong xanh với từng đàn cá tung tăng bơi lội, Đại Danh trầm ngâm suy nghĩ:
– Nếu từ chối ăn sáng, sẽ bị hắn giết liền. Nếu chung mâm cùng bàn, thì còn gì là tông phong đẳng cấp. Cá ơi… cho ta theo các ngươi với!

Đại Danh xõa tóc, bện thành hai lọn, buộc vào hai ngón chân cái, rồi lặng lẽ lao nhẹ xuống hồ.

***

Một hôm, trên bước đường thân chinh dẹp loạn, Vi-đu-đa-ba cùng binh đoàn dựng trại nghỉ đêm trên bờ sông A-chi-ra-va-ti (Aciravati). Một số quân sĩ ngủ trên nền cát mịn giữa lòng sông khô cạn, số còn lại nằm trên bờ đất gồ ghề. Nửa đêm, số nằm trên bờ thức dậy, bảo kiến ra nhiều quá, cắn, đốt không ngủ được. Thế là họ đổi chỗ, xuống ngủ dưới lòng sông, còn nhóm kia lên nằm trên bờ. Bấy giờ ở thượng nguồn có cơn giông tố nổi lên,

mưa tuôn như thác đổ, nước theo sông cuồn cuộn xuôi dòng, cuốn phăng mọi thứ, và số binh sĩ nằm giữa lòng sông kia đều bị nước lôi ra biển, làm mồi cho các loại kình ngư; chỉ số nằm trên bờ thì an toàn, hú vía.

Dân chúng thấy thế bàn tán xôn xao, cho rằng chính bọn ác ôn man dã kia đã tàn sát dòng tộc Thích Ca nên nay bị trời tru đất diệt, trả lại công bình cho bá tánh lương dân. Môn đồ của đấng Đại Giác Thế Tôn cũng hơi nóng mũi, lên tiếng rì rào sau thời tịnh niệm:
– Quý huynh đệ thấy đấy, oan oan tương báo, nghiệp chướng khôn cùng. Đúng là sinh sự sự sinh ngày nào dứt, hại người người hại thuở nào nguôi.

Nghe các sư nhỏ to nhận định trong chánh điện, Đức Thế Tôn bước vào, ngồi giữa đại chúng, tươi cười, hỏi:
– Chà! Các thầy có gì mà bàn luận ra vẻ cẩn mật thế?
– Bạch Thế Tôn, vụ tàn sát dòng tộc Thích Ca năm xưa và cảnh lũ lụt khủng khiếp vừa qua phải chăng là oan gia tụ hội, nghiệp báo khó lường!
– Này các thầy Tỳ-kheo – Đức Thế Tôn thấp giọng nói – nhân quả như bóng với hình. Cho dù những ai kia có thành đạt mục tiêu hay an tâm mãn nguyện cỡ nào thì cũng khó mà thoát khỏi cơn lũ khủng khiếp tràn qua ngôi làng đang thiếp ngủ, tử thần hẳn lôi họ ra khơi và dìm họ xuống tận biển sâu đau khổ.

Ngài đọc kệ:
Người hái hoa dục lạc,
Tâm tham nhiễm say sưa,
Tử thần sẽ kéo bừa,
Như lụt cuốn làng ngủ.
(PC. 47)

Hiển thị thêm
Back to top button