Thích Nhuận Châu dịch (Nietzsche và đạo Phật): Ý chí hùng tráng và Khát ái

NIETZSCHE VÀ ĐẠO PHẬT

ROBERT G. MORRISON
Oxford University Press, 1997
Thích Nhuận Châu dịch


PHẦN 2
NHỮNG QUAN HỆ SAI LẦM

(Xem phần trước: ‘Hình bóng’ của Thượng đế và học thuyết ‘Vô ngã’ của đạo Phật)

10. Ý chí hùng tráng (Will to Powervà Khát ái

Trong tác phẩm Ý chí hùng tráng (Will to Power), Nietzsche hình dung vũ trụ như là ‘quái vật mạnh mẽ, không có khởi đầu, không có kết thúc…, một trò đùa sáng tạo và huỷ diệt của các lực,… một sự trở thành miên viễn phải quy hồi vĩnh cữu.’[1] Đây là thế giới quan theo Dionysis của Nietzsche, thế giới như là ‘ý chí hùng tráng.’ Trong thế giới nầy, con người là một hiện thân cá biệt và riêng rẽ của chính ý chí hùng tráng nầy, một cấu hình đặc biệt của ‘trò đùa các xung lực’ nổi lên trong một thời điểm riêng biệt trong dòng tiến hoá của thế giới tự nhiên. Con người, do vậy là sản phẩm của thế giới đã có trước nó. Đạo Phật, mặt khác, không bao giờ có một triết lý về tự nhiên, cũng chẳng cảm thấy cần thiết phải có một quyển dứt khoát về nguồn gốc tối sơ của con người hay vũ trụ. Trong Kinh Trường A-hàm (Dīgha-Nikāya), chúng ta được giới thiệu một hình ảnh tổng quan về vũ trụ thuộc dạng thế giới vô thuỷ (không có chổ khởi đầu)–trong Kinh Đức Phật dạy rằng khởi đầu của luân hồi (saṃsāra) không thể biết được, cũng chẳng biết được[2] luân hồi liên tục qua vô số kiếp hoại (devolution; savaṭṭa) rồi thành (evolution; vivaṭṭa).[3] Trong hình ảnh tổng quan về vũ trụ nầy, bất luận vũ trụ đang ở trong thời kỳ nào, luôn luôn có những sinh linh chưa giác ngộ sống trong cõi giới nầy hay cõi giới khác, những người được xem là ‘quy hồi vĩnh cữu’ ở một nơi chốn nào đó trong cõi luân hồi (saṃsāra), hễ khi nào họ chưa chứng được niết-bàn (nirvāṇa). Tuy nhiên, trong vũ trụ nầy, chỉ có trò đùa của các lực mà đạo Phật trực tiếp quan tâm đến là những lực cấu thành những sinh linh chưa giác ngộ, chứ không phải là những lực tạo nên thế giới tự nhiên. Do vậy, một nghiên cứu tỉ giảo ý tưởng của Nietzsche về Ý chí hùng tráng và khái niệm khát ái (tahā) trong đạo Phật nhất thiết phải xoay quanh một lực biểu hiện riêng biệt, đó là con người. Stack đề cập: ‘Sự nhấn mạnh của Nietzsche trên tâm điểm ham muốn mạnh mẽ, khao khát, xung lực trong con người được cho là xuất phát từ một hình thái rất nguyên thuỷ của ‘xúc cảm– affect’ (= Ý chí hùng tráng) gợi ý đến điều gì đó tương tự như khái niệm tham ái (tṛiṣṇā)[4] trong đạo Phật.

Stack y cứ những đề xuất nầy từ khái niệm khát ái (tahā) tìm thấy trong tác phẩm Mysticism: Christian and Buddhist.[5] của D. T. Suzuki. Stack còn lưu ý rằng ‘Dù không có bằng chứng trực tiếp Nietzsche đã tiếp nhận ý niệm cơ bản [khát ái (tahā)] nầy từ trong đạo Phật, nhưng ông đã quá quen thuộc với tư tưởng Đông phương (có nghĩa là thông qua Schopenhauer, những tác phẩm từ người bạn thân của ông, Paul Deussen–Das System des Veddnta Die Philosophie der Upanishads)–và qua các nghiên cứu hay các tác phẩm khác, đặc biệt là bộ luật Hindu, Laws of Manu.[6] Quả thực Schopenhauer đã đối chiếu ‘ý chí…với khát vọng không thể nào thoả mãn được,’[7] dù ông không bao giờ đề cập trực tiếp đến khái niệm trong đạo Phật. Tuy nhiên, trong các tác phẩm của Deussen,[8] không có đề cập nào đến khái niệm đạo Phật về khát ái, cũng chẳng tìm thấy được điều gì trong bộ Luật Manu (Laws of Manu). Đề cập trực tiếp nhất đến khát ái (tahā) từ nguồn gốc Đông phương của Nietzsche sẽ ngược với Ý chí hùng tráng của ông, có lẽ là đề cập của Oldenberg đến ba hình thức của khát ái: ‘khao khát lạc thú, khao khát hiện hữu, và khao khát vô thường,’[9] – ‘khao khát vô thường’ như chúng ta thấy, là cách dịch khác của vibhava-tahā, nghĩa chính xác là vô hữu ái.[10]

Vì ý niệm của Nietzsche về Ý chí hùng tráng có mô hình của nó từ trong ý niệm Eris hay Strife của Hesiod, nên tôi sẽ dùng ý niệm Erōs [11] như được tìm thấy trong Symposium cuả Plato như là một mô hình cho khát ái (taṇhā).[12]

10.1 KHÁT ÁI (TAṆHĀ) VÀ ERŌS

Trong Symposium, Socrates thích thú chỉ ra rằng vị thần Erōs thích sắc đẹp và ‘người ta ham muốn cái mình thiếu,’ do vậy thần Erōs ‘thiếu và không có sắc đẹp,’[13] Từ đó thần Erōs biểu hiện cho trạng thái ham muốn cái mà mình thiếu. Vì đối với bản chất trọn vẹn của thần Erōs , Socrates ‘hướng dẫn’ cho Diotima nói cho ông biết rằng ‘chân lý là điều mà chúng ta cô lập cái tên Erōs, vốn thực sự thuộc về một toàn thể rộng lớn hơn, trong khi chúng ta sử dụng danh xưng khác cho một dạng khác của Erōs.’[14]

Khi Socrates hỏi về một ví dụ về dạng khác của Erōs, Diotima nêu lên ví dụ ‘ham thích tiền hay thành thạo khoa học hay ham thích trí thức và ham thích ‘thi ca’[15]’ vốn đều là Erōs dưới các danh xưng khác nhau, trong ý nghĩa chúng có thể chia xẻ tính cách cuả Erōs. Do vậy, Erōs có thể được hiểu như là ‘ý niệm chung [nó] bao hàm mọi ước nguyện tốt lành và hạnh phúc.’[16] Do vậy, nó không được đồng nhất với chỉ một dẫn lực hay ảnh hưởng riêng biệt, mà là một đặc tính được chia xẻ bởi nhiều dẫn lực, thuộc về yếu tố tinh thần nhiều hơn. Diotima còn tạo một sự khác biệt giống như Hesiod khi ám chỉ đến bản chất của Erōs, trong đó ‘sự sinh sôi nẩy nở có thể hoặc là vật chất hoặc là tinh thần.’[17] Điều thứ nhất sản sinh ra trẻ con trong khi đó điều thứ hai làm nên vẻ đẹp của tâm hồn và tính cách, ngay cả hiểu biết. ‘Hiểu biết [là] một trong những gì đẹp nhất.’[18] Nhưng cái Erōs, sau nầy không phải là ảnh hưởng hoàn toàn không giống nhau, mà nó được hiểu như là ‘tinh thần hoá–spiritualization’ hay ‘sự thăng hoa’ điều đã nói trước–dùng thuật ngữ của Nietzsche.[19] Do vậy, chúng ta có thể nói rằng đó là đối tượng ham muốn thực sự đã báo cho biết một trong các loại và phẩm tính của Erōs: một thân xác hấp dẫn là đối tượng của Erōs, có nghĩa là tình yêu thể xác, và trạng thái toàn mỹ của tinh thần là đối tượng khác của Erōs, có nghĩa là tình yêu tinh thần. Nhưng khát ái (taṇhā) là gì? Bằng cách nào mà khát ái (taṇhā) được tạo thành mô hình trong ý niệm nầy của trường phái Socrate về Erōs ?

10.2 THUẬT NGỮ TA

 Những ai đã quen với hoặc là Kinh tạng Pāli hoặc nói chung, khi họ được hỏi ý kiến về trạng thái tinh thần của taṇhā, vốn thường được dịch là ‘sự tham muốn–craving,’ hầu hết đều trả lời giống nhau rằng taṇhā là hoàn toàn đối nghịch với sự tìm kiếm mục đích tâm linh, tức phạm hạnh (brahmacariya), và hầu như hơi giống với ý niệm của Ki-tô giáo về tội tổ tông (original sin), trong ý nghĩa là không ai sinh ra mà không có điều ấy. Như trong sự thật thứ hai trong Tứ diệu đế đã dạy chúng ta, taṇhā là nguyên nhân của khổ (dukkha) hay là ‘đau khổ và không thoả mãn,’–sự thật thứ nhất, và sự diệt tận khát ái (taṇhā), sự thật thứ ba, chính nó là đồng nghĩa với niết-bàn, mục tiêu tối hậu của sự tu tập theo đạo Phật. Khát ái được cho là ‘người thợ dệt’ đã ‘đan dệt chính con người vào trong vòng tái sinh đời đời nầy;’[20] đó là cái ‘vì nó mà thế giới nầy bị thiêu đốt âm ỉ, bị bao bọc, rối rắm tợ như một cuộn chỉ, bị bao bọc bởi sự tàn rụi, méo mó như sợi cỏ úa, đến nỗi nó không vượt qua được luân hồi (saṃsāra), cõi đoạ lạc, các ác thú (Way of Woe),[21] giống như mũi tên… tẩm dày đặc thuốc độc.[22] Lấy một đoạn bất kỳ trong Kinh tạng Pāli, người ta có thể dựng lên một cái nhìn về khát ái là hoàn toàn bất thiện và bại hoại tinh thần, đó là ít nhiều những gì mà khát ái được thể hiện qua văn hệ tiêu chuẩn của đạo Phật. Mặc dù những chê bai nặng nề nầy về thuật ngữ khát ái nầy, còn có những đoạn kinh trình bày khát ái với ý nghĩa trung tính hơn, và thậm chí, với cái nhìn tích cực. Khi những điều nầy được đưa ra xem xét, cái nổi bật lên chính là quan niệm quân bình hơn về khát ái, một quan niệm mà, giống y như Ý chí hùng tráng (Will to power) của Nietzsche, có thể nói là nó chứa sẵn cả hai tiềm năng phá huỷ và sáng tạo. Khát ái có thể trở thành ‘người thợ dệt’ đã ‘đan dệt chính con người vào trong vòng tái sinh đời đời nầy,’ những có thể chỉ ra rằng không có khát ái thì sẽ không có [việc đề xướng thực hành] đời sống tâm linh theo đạo Phật–không có [việc đề xướng tu tập] phạm hạnh (brahmacariya), và do vậy cũng chẳng có [sự thị hiện trong đời của] chư Phật. Khát ái (taṇhā), nghĩa đen là ‘khát khao (drought/thirst)’ như trong Từ điển Pāli-English Dictionary cho chúng ta biết, thuật ngữ ấy được ‘hình thành chủ yếu trong thi ca, hoặc trong các dọan văn xuôi chuyên diễn đạt sự xúc cảm. Ít khi được dùng trong lĩnh vực triết học hay tâm lý học.’ Một cách tượng trưng, thuật ngữ trên có nghĩa là ‘thèm muốn, ham muốn mãnh liệt về, sự kích thích, nóng lòng ao ước về điều chưa thoả mãn.’ Gán cho thuật ngữ nầy một từ nguyên trong thi ca, khát ái có thể xem như là thuật ngữ thích dụng cho sự tưởng tượng hơn là nguyên do, và đây có lẽ là lý do tại sao nó ít được đề cập trong danh mục và phép hoán vị trừu tượng (abstract permutations) của khoa học kỹ thuật về sau, không nói đến nghĩa bóng (arid) trong văn hệ A-tỳ-đạt-ma (Abhidhamma).[23] Đối với những ai đã nghe thuật ngữ nầy từ chính kim khẩu Đức Phật hoặc là từ các vị Thánh tăng, đệ tử của ngài, khát ái (chắc chắn là nhằm diễn tả một xúc cảm sâu sắc vốn được dịch là ‘ham muốn mãnh liệt’ dứt khoát phải làm cho bằng được. Gán cho nó một nguồn gốc thi ca, tôi sẽ cố gắng để trình bày rằng khát ái tốt nhất nên được hiểu là một ẩn dụ để chuyển tải điều kiện chung của những sinh linh chưa được giác ngộ: một cảnh giới hiện hữu của những sinh linh có điều kiện chung chính là nền tảng thiết yếu, khiến sinh khởi nên những nỗ lực đa dạng để thành tựu và mãn nguyện. Nói cách khác, khát ái không phải là một cảm xúc hay ảnh hưởng chuyên biệt, mà, giống như Erōs, ‘có thể được hiểu như là ‘ý niệm chung [nó] bao hàm mọi ước nguyện tốt lành và hạnh phúc,’ có thể được hiểu tổng quát hơn, là một ý niệm chung nhất cho lĩnh vực cảm xúc ẩn sâu dưới tiến trình toàn diện của luân hồi (saṃsāra)[24] (vốn dĩ nhiên, sẽ bao hàm mọi ước nguyện thiện lành và hạnh phúc). Do vậy, thuật ngữ ấy có thể được hiểu như là một cố gắng để mô tả, trong một phép ẩn dụ đơn giản, là điều kiện chung của sự hiện hữu trên thế gian, cũng như cung ứng một nguyên nhân tiên quyết cho lí do tại sao chúng ta kinh nghiệm được luân hồi (saṃsāra) như là khổ (dukkha) tột cùng hay là ‘bất như ý’ (unsatisfactory). Nói cách khác, khi luân hồi (saṃsāra) không hoàn toàn dập tắt được ‘cơn khát’ của chúng ta, thì nó phải đến với người nào (có nghĩa là bậc thánh (ariya) đã hoàn toàn nhận ra được điều nầy (khát ái) chính là khổ (dukkha).

10.3 TRÊN PHƯƠNG DIỆN VŨ TRỤ LUẬN

Trong Kinh Aggaña Sutta, gần như tiến đến một dạng Genesis[25] của đạo Phật, vào thời kỳ kiếp hoại[26] của vũ trụ, theo tương truyền hầu hết con người đều được sinh ra từ cõi trời Cực Quang Tịnh thiên,[27] nơi được xem là ‘sống bằng thức ăn là sự hoan hỉ, mình phát ra ánh sáng, có thần túc bay trong hư không, an vui không ngại, mạng sống lâu dài Nhưng tuy vậy, mọi thứ đều vốn là vô thường, thế giới thường tình nầy lại biến chuyển, và những chúng sinh hiện hữu bằng ánh sáng, như là kết quả của công đức (puñña) đã cạn kiệt, lại đoạ lạc–theo cách giải thích của đạo Phật–xuống vòng luân hồi (saṃsāra), chuỗi xích hiện hữu vô cùng bất tận (Great Chain of Being) và cuối cùng trôi lăn trong trần gian hệ luỵ nầy. Như Đức Phật giảng giải cho Vāseṭṭha:

Này Vāseṭṭha, lúc bấy giờ, vạn vật trở thành một thế giới toàn nước đen sẫm, một màu đen khiến mắt phải mù. Mặt trăng, mặt trời không hiện ra; sao và chòm sao không hiện ra; không có ngày đêm; không có tháng và nửa tháng; không có năm và thời tiết; không có đàn bà đàn ông. Các loài hữu tình chỉ được xem là loài hữu tình mà thôi. Này Vāseṭṭha, đối với các loài hữu tình ấy, sau một thời gian rất lâu, vị đất tan ra trong nước. Như bọt nổi lên trên mặt cháo sữa nóng đang nguội dần, cũng vậy đất hiện ra. Đất này có màu sắc, có hương và có vị. Màu sắc của đất giống như đê hồ hay thuần túy như tô, vị của đất như mật ong thuần tịnh.

 Này Vāseṭṭha, có loài hữu tình, có tánh tham, nói: Kìa xem, vật này là gì vậy?, lấy ngón tay nếm vị của đất. Khi lấy ngón tay nếm vị của đất, vị ấy thấm vào thân và tham ái khởi lên. Này Vàsettha, các loài hữu tình khác, theo gương hữu tình kia, lấy ngón tay nếm vị của đất. Khi lấy ngón tay nếm vị của đất, vị ấy thấm vào thân và tham ái khởi lên. Rồi các hữu tình kia bắt đầu thưởng thức vị của đất, bằng cách bẻ từng cục đất với bàn tay nhỏ của họ, thời ánh sáng của họ biến mất. Khi ánh sáng của họ biến mất, mặt trăng mặt trời hiện ra. Khi mặt trăng, mặt trời hiện ra, thì sao và chòm sao hiện ra. Khi sao và chòm sao hiện ra, ngày và đêm hiện ra, khi ngày và đêm hiện ra, thì nửa tháng và tháng hiện ra. Khi nửa tháng và tháng hiện ra, thời tiết và năm hiện ra. Như vậy, này Vāseṭṭha, thế giới này bắt đầu thành trở lại. (D-N iii. 84-5)

Một khi loài hữu tình thân mình phát ra ánh sáng tiếp tục sự ‘đọa lạc’ của họ, họ càng trở nên thô nặng hơn, và trở nên rối rắm vướng mắc hơn nơi thế gian, mãi cho đến cuối cùng họ tạo ra một thứ phiền toái và phân chia thế giới đang vây bủa chúng ta ngày nay, từng mỗi người như chúng ta, bị lôi cuốn bởi mọi thứ hấp lực. Và, như chúng ta có thể thấy, đó chính là khát ái (taṇhā), thay thế cho vết cắn ô nhục vào trái táo cay đắng, khiến cho thế giới phải chuyển hoại–một dạng trầm luân đọa lạc theo quan niệm đạo Phật–nhưng ở đây trái táo được thay thế bằng cái như thể là đồng nhất với những gì ngọt ngào thơm tho của Ấn Độ, và Đoạ lạc (Fall) chỉ là một phần của vòng luân hồi tự nó lập lại bất tận. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng khát ái không những sinh khởi trong sinh vật, mà khát ái còn sinh khởi trong tâm thức của chúng sinh ở cõi trời,[28] là loài hữu tình thân mình phát ra ánh sáng. Ở nơi khác, Đức Phật tuyên bố rằng khát ái là ‘chất đốt–fuel’ (upādāna) nối kết đời sống nầy với đời sau,[29] hàm ý rằng chính khát ái là điều kiện cơ bản cho mọi hiện hữu khắp các cõi giới trong vũ trụ quan Phật giáo. Người ta có thể nói rằng chính Ý chí hùng tráng (The will to power) là đặc điểm nền tảng và bao trùm thế giới quan của trường phái triết học Nietzsche, thế nên khát ái chính là đặc điểm nền tảng và bao trùm trong thế giới quan đạo Phật.

10.4 KHÁT ÁI (TAṆHĀ) NHƯ LÀ ‘HÌNH THÁI NGUYÊN THUỶ NHẤT CỦA CẢM XÚC’

Mặc dù không được đề cập trực tiếp trong Kinh tạng, nhưng vẫn có những đoạn kinh, khi kết hợp với ý niệm khát ái được nêu trên, đã gợi ý rằng khát ái có thể được hiểu như ý nghĩa mà Nietzsche tiêu biểu bằng Ý chí hùng tráng: như là ‘hình thái nguyên thuỷ nhất của cảm xúc,’ từ đó mọi ảnh hưởng khác chỉ là trình bày mở rộng.’[30] Chẳng hạn, trong Tăng chi bộ Kinh (Aṅguttara-nikāya),[31] chúng ta đọc thấy:

Này các tỷ-khưu, khởi thuỷ ban sơ của hữu ái (bhava-taṇhā) không thể biết được (paññāyati) trước khi người ta nói hữu ái (bhava-taṇhā ) không có, vì nó đã có từ khi nó hiện hữu. (A-N v. 116)

Mặc dù kinh nầy đề cập đến hữu ái (bhava-taṇhā), một trong tam ái [32] được nói đến trong kinh, và tự thân tam ái không phải là khát ái. Tôi cho rằng rõ ràng là hữu ái (bhava-taṇhā) là căn bản và chung nhất trong ba thứ trên và là đồng nghĩa với tự thân khát ái (taṇhā). Dục ái (Kāma-taṇhā) là sự ‘khát khao’ đặc biệt là về nếm trải dục tính và do vậy, đó là một phương diện tổng quát hơn hữu ái (bhava-taṇhā), trong khi đó là sự ‘khát khao’ về mọi hình thái hiện hữu hoặc kinh nghiệm hoặc vật thể.

Nếu chúng ta giả định rằng sự hiện hữu không có sẵn quan niệm ‘Death Wish’ theo trường phái Freud, thì ái thứ ba, Vô hữu ái (vibhava-taṇhā) hay là ‘chấp trước vào hư vô tịch diệt–thirsting after non-existence,’[33] rất giống với kết quả từ sự mất tác dụng tương tục của hữu ái (bhava-taṇhā) và dục ái (kāma-taṇhā). Do vậy, Vô hữu ái (vibhava-taṇhā) sẽ tương đương với ước muốn hằng vĩnh (last will) của con người, đắm chấp vào tịch diệt hư vô,[34] hay là, chúng ta có thể nói, ‘khao khát hư vô–thirst for nothingness.’ Như Nietzsche bổ sung, ‘Đúng ra, con người có ý hướng hư vô hơn là không có ý chí.’[35] Do vậy, chúng ta có thể diễn giải điều nầy và nói rằng đúng ra, con người nên khát khao hư vô hơn là không khát khao một điều gì cả: ‘Khát khao’ là điều kiện chung nhất của sự hiện hữu trên thế gian, con người không có sự chọn lựa nào để không khát khao.

Nêu lên vai trò vũ trụ luận của khát ái–có nghĩa là điều kiện tiên quyết và ảnh hưởng để lập thành sự luân chuyển trong các cõi luân hồi (cycle) khác theo quan niệm đạo Phật, và do vậy, điều kiện tiên quyết bên trên mọi ảnh hưởng khác có thể được hiểu như là sự phát triển mở rộng–và điều ấy, như chính vũ trụ, khởi thuỷ của nó được cho là bất khả tri, chúng ta có một mối quan hệ rõ ràng giữa khát ái và mô tả tính cách Ý chí hùng tráng của Nietzsche như là ‘hình thái nguyên thuỷ nhất của cảm xúc,’ từ đó mọi ảnh hưởng khác chỉ là trình bày mở rộng.’

10.5 KHÁT ÁI (TAṆHĀ) NHƯ LÀ ẨN DỤ

Điều nói rằng khởi thuỷ của khát ái là bất khả tri, cũng chính là vô minh.[36] Luận giải về hai dụ ngôn (sutta) nầy, ngài Phật Minh[37] đặt vấn đề: ‘Nhưng tại sao Đức Thế tôn (bhagavant), [tức là Đức Phật] đưa ra sự mô tả về luân hồi (saṃsāra) bằng hai điều như là điểm khởi đầu?’ Ngài Phật Minh tự đưa ra câu trả lời: ‘Vì chúng là những nguyên nhân căn bản của nghiệp (kamman) dẫn đến cuộc sống hạnh phúc hay đau khổ.’[38] Không như vài tôn giáo khác như Ki-tô giáo và Islam, đạo Phật không ấn định một điểm đặc biệt nào về thời gian khi thế giới khát ái hình thành, hoặc thậm chí nó đã từng như vậy, cũng để mặc không thừa nhận một nguyên nhân đầu tiên nào. Do vậy, dù hai nguyên lý cơ bản nầy không theo cách nguyên nhân chính nó (causa sui), mà là ‘liên quan tuỳ thuộc nhau–[idappiccaya][39] không có cách khác. ‘Nhưng,’ như ngài Phật Minh nói thêm, ‘có một cách tượng trưng ([pariyāya]) trong đó, [chúng] được xem như là nguyên nhân gốc rễ [của luân hồi (saṃsāra)]. Cách thức đó là gì? Khi nào [chúng] được xem như là điểm khởi đầu cho sự mô tả về luân hồi?’[40] Nói cách khác, chúng là thuộc về phương pháp luận cao nhất trong đó chúng đại biểu cho cơ sở và điều kiện chung nhất cho sự hiện hữu bất giác trong luân hồi, cũng như hiện hữu những xu hướng luân hồi sau cùng bị tiêu trầm trước khi chứng quả A-la-hán hay thành tựu quả vị Phật. Trong ý nghĩa nầy, trong dạng nầy hay dạng khác, chúng đều mô tả toàn thể của sự hiện hữu trong luân hồi, từ sơ nguyên nhất và sâu thẳm thô thiển của nó cho đến đỉnh cao tinh tế nhất. Do vậy, chúng có thể được xem là đã có ở đó từ vô thuỷ cho đến vô chung của luân hồi. Người ta cũng có thể nói rằng, kết hợp lại, hai điều nầy (khát ái và vô minh) như là hai cột trụ chống đỡ toà dinh thự luân hồi. Khát ái, do vậy, theo sự miêu tả nầy, là hoàn toàn không như một ảnh hưởng riêng biệt nào trong số những ảnh hưởng khác, mà được hiểu tốt nhất như là một ẩn dụ–ẩn dụ ý chí luận[41]– với nỗ lực nắm bắt được đặc tính ảnh hưởng trùm khắp của hiện hữu luân hồi. Lại nữa, nếu chúng ta lấy hai dụ ngôn (sutta) từ Tăng chi bộ Kinh như là giá trị đối chiếu, thấy ra khát ái, cũng như hữu ái (bhava-taṇhā), càng căn bản hơn là vô minh (spiritual ignorance; p: avijjā), hễ khi nào khát ái được xem là được nuôi dưỡng bởi vô minh, nhưng không phải ngược lại, làm cho khát ái có nền tảng hơn vô minh. Tuy nhiên, cả hai đều được cho là tương duyên (conditionally dependent), với hàm ý rằng chúng ta có thể hiểu được khát ái và vô minh như là phương diện cảm xúc và nhận thức của cùng một trạng thái. Nói cách khác, có một sự tùy thuộc lẫn nhau giữa trạng thái cảm xúc và thế giới được tri giác vốn không thể nào được nhận biết một cách tách rời nhau. Dùng một hình ảnh từ kinh này, nó giống như hai bó lau dựa vào nhau, bó nầy dựa vào bó kia để dứng vững.[42] Trong trường hợp nầy, hai bó lau chính là danh và sắc (nāma-rūpa) hay thân, tâm và thức (viññāṇa; consciousness), có nghĩa ‘ý thức’ hay ‘phân biệt–viññāṇa,’ là tương duyên với cảm xúc, và ngược lại–lấy danh (nāma) hay tâm (mind) bao hàm cảm thọ (vedanā; feelingsensation), tưởng (saññā; apperception) và hành (sakhāras ; formative forces) là nơi mà các cảm xúc được tìm thấy. Tính tương duyên nầy có thể được thấy ở những nơi khác trong kinh, trong đó Đức Phật khuyến tấn hàng đệ tử tỷ-khưu tu tập định lực (samādhi): ‘Vị tỷ-khưu tuệ tri (pajānāti) các pháp như thực (yatha-bhuta).’[43] Trạng thái định (samādhi) ở đây hàm ý nhiều hơn thuật ngữ ‘concentration’ có thể chuyên chở. Thuật ngữ nầy hàm ý công phu tu tập tứ thiền (four levels of jhana; meditative absorption) trạng thái hợp nhất tâm linh được chứng đạt thông qua thiền định (bhavana), cốt ở tác dụng thuần tuý của công phu. Do vậy, ‘Thấy biết các hiện tượng như chúng đang là,’ hay như trong kinh cũng có nêu ra, ‘tuệ tri các pháp như thực,’[44] chỉ có thể hình thành trong tương duyên, nhờ sự phát triển của định (samādhi), hàm ý sự phát triển của tác dụng khéo léo, hoàn toàn minh hoạ cho tính tương quan của biết (knowing; ñāṇa) và thấy (seeing; dassana) và tác dụng của định (samādhi). Nêu ra tính tương quan nầy của khát ái (taṇhā) và vô minh (avijjā), và như ngài Vasubandbu và Matilal đã luận bàn,[45] vô minh (avijjā) không đơn giản là sự thiếu vẳng của trí (knowledge; vijjā), mà phải, trong một ý nghĩa nào đó, phải biểu tượng cho ‘cái nhìn’–trong trường hợp nầy, chính là ‘cái thấy sai lầm,’[46] nên khát ái, như Ý chí hùng tráng, sẽ luôn luôn được đi kèm với một viễn tượng,[47] dù ý thức hay vô thức, trong một vài ý nghĩa cho biết và hướng đến tìm kiếm sự thoả mãn, dù nhất thời hay dài hạn.

Và vì có khả năng các quan niệm và ý tưởng như vậy có thể được điều chỉnh bởi kinh nghiệm, nên còn có khả năng các ‘cái nhìn’ kia trở thành ‘chánh kiến,’[48] thì khát ái cuối cùng sẽ làm dịu ‘cơn khát’ của nó.

10.6 DUYÊN KHỞI VÀ KHÁT ÁI (TAṆHĀ)

Khát ái (taṇhā) có thể được hiểu là điều kiện chung nhất hơn là tác dụng đặc biệt để có thể nhìn thấy trong chuỗi xích thông dụng nhất gồm 12 nhân duyên (paicca-samuppāda). Ở đây, cho biết rằng duyên xúc (contact; phassa) của chúng ta với thế giới, mà thọ (vedanā; feeling-sensation) sinh khởi; nhờ duyên vào thọ mà khát ái sinh khởi, nhờ duyên vào khát ái mà thủ (upādāna; clinging) sinh khởi, với kết quả trở thành càng ràng buộc hơn trong vòng luân hồi . Tuy nhiên, ở đây tôi không khảo sát khát ái để quy vào một tác dụng riêng biệt sinh khởi tương duyên với thọ (vedanā; feeling-sensation), mà chỉ là một thuật ngữ chỉ cho một điều kiện chung nhất: đó là, như ngài Phật Minh đã dành cho nó, là một diễn đạt tượng trưng [pariyāya] cho điều kiện nguyên ủy và chung nhất về sự hiện hữu của chúng ta trên thế gian, từ đó phát xuất những tác dụng đa dạng sinh khởi thông qua sự tiếp xúc của chúng ta với thế giới.[49] Chẳng hạn, nếu một người đàn ông phóng đãng gặp một người phụ nữ đẹp, điều nầy sẽ gây nên một cảm thọ khoái lạc, đến lúc nó sẽ tạo thành duyên cho sự sinh khởi cảm xúc như là ‘tham ái (lust; rāga)’; ‘đam mê (infatuation; pema)’. Trong khi đó, nếu chúng ta gặp người nào đó nói rằng mình ngu đần, thì cảm thọ gần như là không hài lòng, trở lại nó hình thành duyên cho sự sinh khởi tác dụng như ‘ghét (aversion; paṭigha)’ hay ‘căm thù (hatred; doṣa)’. Sự đáp lại cho cảm thọ sẽ là một tác dụng đặc biệt, và khát ái ở đây, như tôi gợi ý, không phải là tác dụng đặc biệt như vậy, mà tốt hơn nên được hiểu là biểu trưng, hay mang tính ẩn dụ, như điều kiện chung nhất từ đó có thể sinh khởi mọi tính cách của tác dụng, gồm cả, như chúng ta thấy, những gì đạo Phật xem là tác dụng thiện, dạng cảm xúc được vun trồng như là một phần của đời sống tâm linh.

Nêu ra những gì được xem là khát ái, hoàn toàn rõ ràng rằng khát ái không phải được hiểu như là tình trạng ‘khao khát,’ như con người ảnh hưởng trong số những người khác, mà là một thuật ngữ biểu đạt điều kiện cơ bản và chung nhất của từng hiện hữu trong cõi luân hồi– hoặc là thậm chí cả chính vũ trụ–bất luận cấp độ của hiện sinh trong cõi luân hồi là ‘nguyên thuỷ’ hay thù thắng. Đây là lý do tại sao, như trong sự thật thứ hai trong Tứ diệu đế, khát ái được xem là nguyên nhân của mọi hình thức của khổ (dukkha), từ cái khổ thể xác cho đến cái khát khao vi tế của chư thiên (devas), phạm thiên (brahmas), và sự thoả mãn cái khát đó chính là đồng nghĩa với thực chứng niết-bàn.

10.7 KHÁT ÁI (TAṆHĀ) THIỆN VÀ BẤT THIỆN

Dù vậy, như tôi đã nêu, quan niệm chung nhất và truyền thống về khát ái là dạng phản đề với đời sống tâm linh đạo Phật, còn có một vài điều ít ai biết đến, như tôi được hiểu, là hoàn toàn lờ đi những đoạn văn ngụ ý rằng khát ái còn có một khía cạnh toàn thiện hơn.

Trong Kinh Tăng nhất A-hàm, chúng ta thấy có phát biểu: ‘Họ từ bỏ khát ái bằng chính khát ái.’[50] Nhưng ở đây chúng ta chỉ được trình bày thuần tuý xác định, không có gợi ý cái gì có thể hàm ý là ‘phương tiện.’ Tuy nhiên, trong Kinh Tương ưng bộ (Sayutta-Nikāya), chúng ta có một minh hoạ có thể giúp cho chúng triết học Có vị Bà-la-môn Uṇṇābha hỏi A-nan:

Do mục đích gì, thưa Tôn giả Ananda, phạm hạnh được sống với sa-môn Gotama?

 Với mục đích đoạn tận dục (chanda; desire), này Bà-la-môn, phạm hạnh được sống dưới bậc Tối thắng. (S-N v. 271 ff.)[51]

Khi được hỏi có công phu tu tập nào để đoạn diệt các dục (chanda) này, A-nan trả lời rằng dục (chanda) có thể được đoạn từ bằng tu tập phát triển Tứ như ý túc.[52] Điều thứ nhất là dục định.[53] Bà-la-môn Uṇṇābha hỏi lại rằng: Như vậy là lấy dục mà trừ dục, việc như vậy không hợp lý.’ A-nan trả lời bằng cách hỏi Uṇṇābha rằng, Có phải trước khi có ý đến thăm A-nan, Uṇṇābha đã có lòng dục (ý muốn) nơi Uṇṇābha thúc đẩy đến gặp A-nan, và Uṇṇābha đi đến Kỳ viên. Sau khi Uṇṇābha đến khu vườn rồi, có phải lòng dục ấy đã được tịnh chỉ? Uṇṇābha đồng ý với câu hỏi nầy.

Cũng vậy này Bà-la-môn… khi một vị tỷ-khưu là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn tận, phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã đoạn, chánh trí, giải thoát (sammadaññā). Lòng dục (chanda) mà vị ấy có trước để chứng được A-la-hán thì khi chứng được A-la-hán rồi, lòng dục (chanda) ấy được tịnh chỉ (appeassed).[54]

Dục (chanda) được đoạn trừ (pahāna), điều mà các nhà luận giải phân tích là khát ái (taṇhā),[55] được đoạn trừ bằng phương pháp phát triển dục ‘tương ưng,’[56] mà ở đây, chính là ước nguyện (chanda) hay ‘mong muốn’ đạt đến quả vị A-la-hán. Và, như kinh văn cho ta thấy, dục ‘tương ưng’ nầy không được nói là đơn giản được đoạn trừ khi chứng quả A-la-hán, mà nói rằng được tịnh chỉ (appeassed; papppassaddha), hay là, như chúng ta có thể nói, thành tựu bản nguyện. Tham khảo thêm các kinh khác, chúng ta có thể nói rằng dục (chanda) bị loại trừ chính là cái dục (chanda) có đối tượng là, chẳng hạn, hiện hữu ở phàm trần,[57] thân xác,[58] hay là dục (chanda) kết hợp với ác tâm[59] hoặc là dục lạc,[60] hoặc là điều được thay thế bằng tham ái–lust; rāga hoặc dục vọng (lobha) hay là một trong ba ‘bất thiện căn– unskilful roots.’[61] Những thứ khát ái nầy, đều được xem là bất thiện, vì chúng không bao giờ được tĩnh chỉ (appeased) hoàn toàn, chắc chắn phải tạo kết quả là khổ (dukkha). Do vậy, chúng ta có thể nói rằng đó chính là những yếu tố bất thiện nầy và những yếu tố tương tự được đoạn trừ, và cách thức đoạn trừ chúng là tu tập phát triển một hình thái dục khác, đó là mong muốn, ước nguyện thành tựu A-la-hán, mà tôi muốn kết hợp với các dục ‘tương ưng’ như ‘tinh cần trên con đường tu đạo,’[62] ‘mong muốn tu tập thiện pháp,’[63] và phát khởi ý muốn ngăn trừ sự sinh khởi niệm ác, các trạng thái bất thiện trong tâm…để hàng phục các trạng thái bất thiện trong tâm… [và] để tăng trưởng, phong phú, phát triển và thành tựu các cảnh giới thiện lành của tâm đã sinh khởi’[64]–điều mà theo trong Phân biệt luận (Vibhaga), tôi cho điều ấy như là pháp dục.[65] Chính những hình thái sau nầy của chanda là sẽ không bao giờ trở nên hoàn toàn tĩnh chỉ (appeased), làm thành một điểm quan trọng là không phải hoàn toàn ý muốn và tham vọng của chúng ta phải chắc chắn kết thúc trong khổ (dukkha), và hình thái chính đáng cuả ý chí và ước vọng chính là con đường tâm linh của đạo Phật.

Như luận giải về đoạn kinh trên cho chúng ta biết rằng dục ban đầu bị đoạn trừ vì được hiểu là khát ái , và nơi khác thuật ngữ dục và khát ái rõ ràng được dùng nhầm lẫn với nhau,[66] và nêu ra rằng điều gì đã được nói ở trên về chanda có thể được diễn giải là ‘lấy dục mà trừ dục,’ chúng ta có thể hoàn chỉnh câu ấy bằng ‘Khát ái chỉ có thể được đoạn trừ băng cách tu tập một ‘khát ái’ tương ưng,’ đó chính là dạng khát ái có thể được tĩnh chỉ (appeased). Dù không còn thuật ngữ nào như vậy trong kinh như là ‘ước nguyện thành tựu quả vị A-la-hán’ hoặc ‘khát ngưỡng giáo pháp,’[67] ý niệm khát ái có thể đạt đến niết-bàn nhờ đối tượng của chính nó, được tìm thấy trong phần bổ sung Kinh tạng, đó là cuốn Nettippakaraa:[68]

Có hai loại khát ái (taṇhā): thiện [kusala] và bất thiện [akusala]. Khát ái bất thiện dẫn đến luân hồi (saṃsāra), Khát ái thiện là nhằm đến sự xả ly, dẫn đến sự đoạn trừ (hành nghiệp luân hồi (saṃsāra). (87)[69]

Như kinh văn tiếp tục trình bày cho chúng ta, trích dẫn một đoạn từ Trung bộ kinh (Majjhima-Nikāya), khát ái thiện như vậy là đồng nghĩa với ‘nhiệt tâm mong muốn’[70] thể nhập vào cảnh giới an lạc của các bậc Thánh (ariya), của những vị chứng ngộ.[71] Thế nên, ‘tâm giải thoát’[72] nhờ vào ‘sự giảm trừ ham muốn [bất thiện] (rāga–virāga) như là đối tượng của nó, khát ái (taṇhā) như vậy là thiện,[73] và, trong tính cách của dục (chanda) như vậy, có thể được xem là cuối cùng sẽ được tĩnh chỉ.

Nhà luận giải kinh tạng Pāli, ngài Phật Minh cũng hiểu khát ái có khía cạnh thiện:

Như là… con bò cái, thông qua khát ái (taṇhā) của nó về nước lạnh, nó bắt đầu uống nước lạnh, khiến cho nó thoả mãn và lắng dịu đi sự khổ đau của nó, cũng vậy, con người phàm phu trong sự kìm kẹp của hữu ái (bhava-taṇhā), của những hành nghiệp với vô số loại bắt nguồn từ việc tránh sát sanh. Việc nầy dẫn đến thiện đạo và đem đến sự thoả mãn vì nó tự tại đối với mọi phiền não nung đốt, và nhờ đưa hành giả đến cõi thiện thú, nó dập tắt mọi dằn vặt đau khổ [sẽ phải nếm chịu] trong cõi bất thiện kia.[74]

Ngài Phật Minh chỉ ra rằng những người phàm phu giống như con bò đang khát cố gằng giải trừ cơn khát mình bằng cách uống nước nóng, ‘vốn không thoả mãn,’ và mô tả nghiệp bất thiện dẫn đến sự thất vọng buồn rầu liên tục (dukkha). Nêu ra ví dụ con bò cái nầy, do vậy, chúng ta có thể nói rằng ‘diệt trừ hẳn khát ái bằng chính khát ái hàm ý rằng khát ái chỉ có thể được tĩnh chỉ (appeased) bằng trở thành thiện (skilful), chỉ bằng khát khao những điều như vậy, từ quan niệm đạo Phật, mới thực sự đem đến thỏa mãn. Nói cách khác, khát ái, là điều kiện chung nhất của chúng sinh chưa giác ngộ, chỉ có thể được tĩnh chỉ bằng thực hành phạm hạnh[75] theo đạo Phật, mà mục tiêu của nó là niết-bàn. Và chúng ta có thể nói thêm rằng, như với Erōs, chính nó là đối tượng khao khát để xác định rằng khát ái là thiện hay bất thiện hoặc thuần tuý trung tính. Và nêu lên rằng thuật ngữ dục (chanda) và khát ái là vốn đồng nghĩa, chúng ta có thể nói rằng khát ái thiện do vậy sẽ tương đương với dạng thiện của dục (chanda) như đã đề cập trước đây, mà tôi sẽ gộp vào dưới thuật ngữ chung là pháp dục (dhamma-chanda), là cái dục tích cực hay ý chí đạt đến mục tiêu tâm linh.

 Cũng rất thú vị khi lưu ý rằng hai tác dụng liên quan mật thiết đến khát ái (taṇhā)–tham (rāga) và ái (kāma) cũng có hai tầng ý nghĩa nầy.[76] Chẳng hạn, chúng ta có thuật ngữ khát ngưỡng giáo pháp,[77] và ưa thích giáo pháp,[78] cả hai đều được hiểu là tác dụng thiện nên được phát huy. Nhưng rāga lại được liệt kê là một trong ba thứ căn bản bất thiện, [79] từ đó, được xem là bất thiện pháp thứ hai phát triển, và như tôi được biết, hầu như luôn luôn được xem là một ảnh hưởng bất thiện, đó là ái (kāma). Tham (rāga) và ái (kāma), do vậy, cũng như khát ái (taṇhā) và dục (chanda), cũng có thể nói là có hai phương diện thiện và bất thiện của nó, có thể nói rằng từ phương diện tác dụng của đạo Phật, và, khi đối tượng của nó được ‘thích ứng (appropriate ) có thể được nói là cuối cùng đã tìm được sự thoả mãn.

Một điểm ít người khác để ý trong kinh cũng có sự liên quan ở đây, là giữa xúc cảm xác thịt (āmisa; ‘carnal) và xúc cảm tinh thần (dhamma; spiritual) vốn tương đương trực tiếp với khía cạnh tạo sinh (regenerate) hay không tạo sinh (unregenerate) của Erōs.[80] Chẳng hạn, có cả dạng xác thịt hay không tạo sinh và dạng tinh thần hay tạo sinh của ‘ham muốn mãnh liệt–esanā,’ ‘tìm cầu (pariyesanā), và ‘năng lực–(iddhi)’ Dù không có ví dụ nào đưa ra để minh hoạ cho sự phân biệt nầy, tôi muốn phỏng đoán rằng, Chẳng hạn, ‘ham muốn mãnh liệt (esanā) trong dạng thể xác (āmisa) là vì đối tượng vật chất và lạc thú, trong khi đó ‘ham muốn mãnh liệt (esanā) trong dạng pháp (dhamma) sẽ có đối tượng tinh thần trong tâm trí. Chẳng hạn, về sự ‘tìm cầu (pariyesanā), các nơi khác có sự phân biệt giữa sự ‘tìm cầu phàm tục (anariyā pariyesanā) và tìm cầu thánh hạnh (ariyā pariyesanā), dạng đầu là sự tìm cầu ‘con trai và vợ… đàn bà và đàn ông nô lệ… dê và cừu… vàng và bạc, v.v…’ dạng sau là tìm cầu niết-bàn.[81]

Nêu lên giáo lý đạo Phật day rằng các pháp đều hình thành chỉ do Duyên khởi, và rằng, như tôi hiểu, tự thân khát ái không có một đặc quyền đạo đức, điều nầy đưa ra một câu hỏi thú vị là đối với những điều kiện nào để khát ái trở thành hoặc là thiện hoặc là bất thiện.

Trong phần 10.5, ‘Khát ái như là ẩn dụ,’ chúng ta thấy rằng bên cạnh bên cạnh khát ái (taṇhā), vô minh,[82] còn có cái bất khả tri hay nhận biết về ‘khởi thuỷ.’ Lại nữa, theo Phật Minh, khát ái, vô minh ‘là nguyên nhân chính của nghiệp– kamman,’ có thể được xem là nguyên nhân chính của luân hồi (saṃsāra),’ và về mặt phương pháp luận, do vậy có thể được ‘làm nên để xem như là điểm khởi đầu cho mô tả về luân hồi (saṃsāra)’– mà, giống như khát ái, vô minh, cũng không có chỗ khởi đầu. Vì khát ái, vô minh là rất căn bản và liên hệ rất mật thiết với nhau–người ta không thể nào có cái nầy mà không có cái kia–trong cái đơn nhất, chúng có thể được hiểu như là phương diện cảm xúc và nhận thức cơ bản cho biết kinh nghiệm, điều hàm ý rằng bằng cách nào mà con người nhận ra và hiểu chính mình và thế giới bị ảnh hưởng bởi trạng thái cảm xúc của mình, và trở lại, trạng thái cảm xúc của mình bị ảnh hưởng bởi cách mà người ấy nhìn và hiểu chính mình thế giới. Như chúng ta thấy ở trên, theo ngài Phật Minh, nó chính là tương duyên.[83] Nhưng nếu khát ái có thể là thiện cũng như bất thiện, và thiện nghiệp là hành vi tâm linh, thì vô minh (avijjā) không thể nào là bản sao của nhận thức của khát ái thiện, mà đối tượng của khát ái thiện là niết-bàn. Bản sao của nhận thức của khát ái thiện phải là cái gì đó như ‘chánh kiến,’[84] thành phần thứ nhất trong Bát chánh đạo (Noble Eightfold Path). Lại nữa, nếu khát ái (taṇhā) tự nó là không có chỗ khởi đầu, và đơn giản nó là điều kiện chung nhất để mọi hiện hữu nhận ra chính mình trong thế giới, thì sẽ là vô lý khi gán cho nó mọi tội lỗi cho sự hiện hữu trong điều kiện của khát ái. Và, vì vô minh (avijjā) chính là bản sao của khát ái từ vô thuỷ, thì các hiện hữu không thể nào phaỉ chịu sự sinh ra hoặc trong điều kiện của vô minh, hàm ý rằng vô minh cũng là một trạng thái đạo đức trung tính. Nêu ra điều nầy, chúng ta có thể rút ra một đối chiếu tương đương giữa các dạng khác nhau của khát ái, và bản sao dựa trên kinh nghiệm.

Tự thân khát ái (taṇhā) = vô minh (avijjā;
       spiritual ignorance)

Khát ái (taṇhā) bất thiện = tà kiến (micchā-diṭṭhi;
wrong view)

Khát ái (taṇhā) thiện = chánh kiến (sammā-diṭṭhi;
right view)

‘Tĩnh chỉ’ khát ái (taṇhā) = trí huệ (vijjā; wisdom),
chính là niết-bàn.

Vấn đề như làm thế nào để khát ái trở thành hoặc là thiện hoặc là bất thiện, do vậy, có thể kết nối với vấn đề tà kiến và chánh kiến sinh khởi như thế nào. Tuy nhiên, vì liệt kê của đối chiếu tương đương nầy không thấy có trong kinh điển tạng Pāli, tôi sẽ đặt vấn đề nầy trong dạng chuỗi tiến hoá của trường phái Nietzsche.

10.8 KHÁT ÁI (TAṆHĀ) TRONG CHUỖI TIẾN HOÁ

Vì chính khát ái là điều kiện thiết yếu chung nhất mà chúng ta nhận biết chính mình, đó chính là cội nguồn từ đó phát xuất vô số phương tiện tìm cầu những trạng thái thoả mãn và cứu cánh trong cuộc đời. Dùng thuật ngữ kinh điển đạo Phật, chúng ta có thể thấy sự tìm cầu thoả mãn như được diễn tả về hai tác dụng ‘căn bản’ của tham (rāga) nói chung, và sân (dosa), cái trước là đáp ứng căn bản cho hiện trạng thu hút hấp dẫn, cái sau đáp ứng cho hiện trạng đe doạ. Cùng với phương diện nhận thức, là si mê (moha), những hình thái nầy lập thành ba căn bản bất thiện[85] của mọi hiện hữu. Vì đạo Phật quan tâm không chỉ sự thăng hoa tâm linh, nên những bất thiện căn (akusala-mūla) nầy luôn luôn được xem là thuộc phạm trù đạo đức vì nó chướng ngại không những đối với cá nhân, mà với dạng thô trọng của nó, còn ảnh hưởng đến chính văn minh xã hội. Điều nầy, tuy nhiên, vì mục đích cho minh hoạ nầy, tôi sẽ chuyển chúng từ quan niệm truyền thống và nhìn chúng từ viễn cảnh của chuỗi tiến hoá phi luân lý (non-moral evolutionary), vì dòng lực cơ bản tự nhiên chung nhất vốn rất cần thiết cho sự tiến hoá và sinh tồn con người nguyên thuỷ: tham (rāga) như là sự thúc dục để đạt được những điều thiết yếu cho sinh tồn; sân (dosa) như là động lực xông xáo cần thiết khi con người đạt đến những nhu cầu thiết yếu nầy trong sự tranh đoạt với kẻ khác, cũng như phòng hộ sở hữu của mình và gia đình bộ tộc mình chống lại kẻ xâm lấn. Si mê (moha) là sự mê mờ của tâm trí hoảng loạn trong mối tương quan giữa chân lý và đời sống tâm linh, nó đơn giản là trạng thái chung của tâm khi có các cảm xúc khác trú ngụ. Trong con người nguyên thuỷ có lẽ có trạng thái của tâm với tầm nhận thức rất giới hạn: ăn, giao hợp, săn bắt, cộng tác cơ bản với những thành viên khác trong bộ tộc và, trong khoảnh khắc yên tĩnh của tâm thức, có lẽ bắt đầu loé lên câu hỏi ‘tại sao?’ Quan niệm đơn thuần thỏa mãn nhu cầu cơ bản để thường dập tắt khát ái theo đạo Phật, sẽ gọi là tà kiến.[86] Nhưng vì khát ái không thể nào được hoàn toàn thoả mãn với cái như vậy, cuối cùng sẽ nếm trải điều nầy như là trạng thái bất như ý (dukkha), và do vậy sẽ tìm cầu phương thức sống thoả mãn hơn–quan niệm khác về đời sống– cuối cùng có thể dẫn đến, ít nhất trong một số trường hợp, sự xuất hiện các xã hội văn minh và phát triển hơn. Vì đời sống trong một xã hội như vậy, ít nhất trong vài nơi, không quá bị chi phối bởi mục đích thuần tuý sinh tồn và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, sẽ sinh khởi nhu cầu tự do cho nhiều hợp tác và và sự tương tác của xã hội có tri thức phát sinh, cung ứng điều kiện thiết yếu cho tầm mức rộng lớn của con người thuần tuý hơn và đáp ứng nhu cầu và tác dụng của học thức nổi lên. Chuỗi tiến trình như vậy tương thích với học thuyết tổng quát của đạo Phật về lý Duyên khởi (paicca-samuppāda): tác dụng sinh khởi tuỳ thuộc vào các điều kiện khác. Do vậy, trong các điều kiện như vậy, những ảnh hưởng càng phát triển và càng văn minh hơn có thể phát sinh–gồm những điều Đức Phật xem như là hiện hữu với nhiều mức độ thiện–cũng như bản sao nhận thức tương quan được diễn tả trong những hình thức văn hoá như văn chương, triết học, nghệ thuật, tôn giáo. Một số các hình thức nầy sẽ tiêu biểu cho một vài mức độ mà đạo Phật sẽ nhận là chính kiến,[87] trong đó, chúng sẽ ‘hiểu rằng tốt nhất là bao dung, bố thí và cúng dường; cả hai nghiệp thiện và ác đều sẽ chịu quả báo; rằng có thế giới nầy và các cõi giới khác, v.v…’[88] Tình trạng như vậy có thể phát sinh thực tế rằng con người bị lôi kéo bởi ‘khát khao’ của anh ta để thoả mãn và có ý nghĩa trong đời sống, và, hễ chừng nào anh ta không thấy được con đường thoả mãn những ước vọng thâm sâu của mình, nói cách khác, chừng nào chánh kiến chưa sinh khởi, anh ta vẫn còn tiếp tục phải chịu khổ đau (dukkha), điều mà, trở lại, là điều kiện tiên quyết cho sự tìm cầu tương tục.

Tuy nhiên, tất cả những điều nầy đều là ngẫu nhiên. Đạo Phật hoàn toàn phù hợp với cái nhìn của Nietzsche về ‘tiến trình’ của nhân loại, trong đó đạo Phật cũng không có quan niệm nào về quy định kỳ diệu và tiến trình nhất thiết thông qua vĩ đại của hiện hữu,[89] hay bất kỳ một bản sao thế tục hiện đại nào. Ngoài dòng lực tự nhiên, yếu tố chính trong mối liên hệ nhân duyên trong đó, điều mà con người phát triển và thăng tiến có thể cho là được xảy ra là toàn bộ ham muốn và khát vọng thường thay đổi: xã hội càng văn minh, ban tặng càng nhiều tự do thì càng tạo nên những cơ hội cho những tác dụng căn bản bất thiện sinh khởi, vốn nó tạo ra vô số ý thức hệ không lành mạnh như chủ nghĩa phát-xít, cực đoan, chuyên quyền, và thúc ép chính mình trong tôn giáo mù quáng, không khoan dung, v.v… Do vậy, cùng lúc và vì nhiều lý do khác nhau, các động cơ thô thiển và di truyền cách đời[90]–tham và sân nguyên thuỷ–bộc phát dưới điều kiện như chiến tranh và xung đột xã hội, và, trong tiến trình, bị cơ cấu trong ý thức hệ duy lý, nó trở nên càng huỷ hoại và phi nhân hơn bản sao tham và sân (raga /dosa ) trong loài ‘thú.’ Chừng nào si mê (moha) hay hoang mang (bewilderment) còn hiện hành, thì các thứ tà kiến vẫn còn sinh khởi, và còn đó khả tính thường hằng của nạn nhân đọa lạc đối với những động cơ di truyền cách đời nầy. Tuy nhiên, mọi hiện tượng đều là ngẫu nhiên, càng có những tác dụng văn minh có thể thấy được như duyên sinh, càng có những động cơ nguyên thuỷ: thực tế là càng có những động cơ căn bản không hoàn toàn thoả mãn, thì khát ái (taṇhā) tất nhiên sẽ có kết quả là phát sinh đau khổ (dukkha), chừng nào còn đau khổ, thì con người vẫn còn tìm cầu nhiều hơn. Chừng nào con người còn tìm cầu, thì vẫn con khả năng họ sẽ tìm thấy điều gì đó, nhưng cũng có khả năng một số người từ bỏ và quyết định rằng tất cả đều chỉ là phù hoa hư ảo kiếp người, và đặt mình vào một tín điều hư vô. Xã hội văn minh ban tặng tự do càng lớn thì nó càng ban tặng một phạm vi lớn hơn những đối tượng để đáp ứng và, do vậy, vì lẽ đó, có một tiềm năng lớn hơn cho sự phát triển con người đặc biệt hơn và ngay cả tác dụng tâm linh và sự hình thành mở ra. Vì không có hình thái hiện hữu ngắn ngủi nào của niết-bàn có thể dập tắt cơn khát của chúng ta, một số thậm chí đi tìm trong hình thức văn minh và văn hoá nhất của đời sống, gồm cả chấp nhận hình thái tôn giáo, là khổ (dukkha), và do vậy, liều lĩnh sang ‘tìm cầu thánh hạnh (ariyā pariyesanā),[91] và tìm kiềm điều ấy để, theo đạo Phật, cuối cùng sẽ dập tắt cơn khát của mình: chính là niết-bàn. Nhưng nếu không có những nỗ lực ban đầu của lòng tham (rāga) và sân (dosa) nguyên thuỷ để tìm thấy sự bảo đảm và hài lòng, văn minh như chúng ta biết nó sẽ không sinh khởi,[92] và điều kiện rất thiết yếu cho sự phát triển tâm linh trong tinh thần đạo Phật có lẽ đã không sinh khởi. Trên hết, không có khát ái, sẽ không có lo âu, bất an[93] (dukkha), và nếu không có nỗi lo âu hiện sinh thì sẽ không có sự tìm kiếm câu trả lời cho tình huống khó xử của con người, và nếu không có sự tìm kiếm như vậy thì đã không có chư Phật. Đã phác thảo tổng quan bao quát về khát ái, chúng ta bây giờ có thể nhìn vào một dạng quan hệ mà quan điểm như vậy có thể chia xẻ với tư tưởng Ý chí hùng tráng của Nietzsche.

10.9 NHỮNG MỐI QUAN HỆ

Có lẽ đặc điểm chung nhất được chia xẻ bởi cả Ý chí hùng tráng của Nietzsche và khát ái là cả hai đều bỏ qua thuyết hữu thần (theistic) hay có sự miêu tả của họ về con người và trú xứ của nó trên trần thế. Cả hai đều cung ứng nền tảng tự nhiên, mà mặc dù trong chính nó chẳng thừa kế ‘thiện’ cũng chẳng thừa kế ‘ác,’ có thể khiến cho chống đỡ bản tánh song trùng trong nữ thần Eris của Hesiod: cả hai, dưới một điều kiện nào đó, có thể trở thành tàn bạo và phi nhân tính; nhưng dưới một điều kiện khác, lại có thể cung ứng lực thúc đẩy thiết yếu để cuối cùng tạo nên một siêu nhân (Übermensch) hay một Đức Phật. Cả khát ái và Ý chí hùng tráng có thể nói là đều có ý nghĩa vũ trụ, trong cả hai được cho là không biết được điểm khởi đầu, và cả hai đều thấm đẫm mọi tầng bực vũ trụ luận của riêng từng cái, từ tầng bậc nguyên sơ cho đến thù thắng nhất. Tuy nhiên, đạo Phật lại nói đến khát ái tiêu trừ hẳn khi thực chứng niết-bàn, trong khi đó Nietzsche không thấy trạng thái cuối cùng trong đó, khi Ý chí hùng tráng hoàn toàn dứt hẳn.

Khát ái có thể hoặc là thiện hoặc là bất thiện, và, như chúng ta thấy trước đây, Nietzsche nhìn thấy rõ ràng, trong khái niệm Ý chí hùng tráng của ông. Ý chí hùng tráng trong dạng thô thiển và con người nguyên thuỷ lại liên quan với sự chinh phục kẻ khác, tàn bạo, chuyên chế, ích kỷ thô lỗ, v.v… Nhưng ông thấy chỉ có một khả tính là cách xử sự về phương diện hiện hữu là không được đè ép nó–điều ấy sẽ tương đương như Ý chí hùng tráng quay trở lại chống lại chính nó–nhưng theo ví dụ của Hesiod và dùng bản chất tự nhiên của nó để hàng phục chính nó bằng cách tạo lằn ranh mới cho tác dụng. Theo Hesiod, ông thấy rằng Ý chí hùng tráng có thể được nhìn thấy có bản chất song trùng, một phương diện khôngtạo sinh và một phương diện tạo sinh, hoặc dùng theo thuật ngữ Phật giáo, một phương diện vật chất (āmisa) hoặc phàm trần (anariya) hay bất thiện, và một phương diện tâm linh (pháp–dhamma), thánh hạnh (ariya) hay thiện. Dạng tạo sinh là điều được gọi ‘tự vượt thắng chính mình,’[94] là điều không liên quan với chiến thắng ngoại giới hay chinh phục người khác, mà hàng phục khía cạnh không tạo sinh trong bản tính con người, chẳng hạn, nhu cầu khiến cho người khác cảm thấy quyền lực của mình, hay nhu cầu trả thù của mình. Trong trường hợp đạo Phật, tôi đã nỗ lực làm một đối chiếu tương tự cho khát ái, cũng dùng phương thức cổ điển Hy lạp–về Erōs trong Symposium của Plato. Khát ái bất thiện là thuộc về khía cạnh không tạo sinh sẽ tương đương với Ý chí hùng tráng trong dạng đó. Khát ái, khi trở thành thiện–nói cách khác, khi nó trở nên có nhận thức về phương pháp để làm hài lòng sâu hơn và chân thực hơn con người và niềm khát ngưỡng tâm linh cũng những ‘nhu cầu’– đều có thể nói là trở thành pháp dục (dhammachanda), ham muốn tích cực hay ý chí phấn đấu và thành tựu những ham muốn sâu xa nầy. Khát ái thiện hay pháp dục (dhamma chanda) lúc đó sẽ tương đương với Ý chí hùng tráng trong phương diện tạo sinh của nó.

Ý chí hùng tráng phục hưng nầy chứng minh trong thực tiễn như là dẫn lực để tự hàng phục chính mình, và tôi đề xuất rằng khi pháp dục (dhamma chanda) thể hiện qua công phu tu tập thì chính đó là điều mà trong kinh gọi là tu tập định tâm (citta-bhāvanā). Cả khát ái và Ý chí hùng tráng có thể nói là cùng chia xẻ nền tảng chung của trạng thái ‘phấn đấu’: Ý chí hùng tráng là ‘tự thoát ra khỏi chính nó’ và đạt được vài sự hài lòng nhất thời; khát ái là nhằm tự biểu hiện chính mình trong một hình thái có tác dụng đến sự làm hài lòng chính nó nhất thời. Sự phấn đấu nầy, trong trường hợp đạo Phật, được cho là ‘dập tắt–nibbuta’ rốt ráo trong niết-bàn. Nhưng Nietzsche dường như không hình dung ra được cảnh giới rốt ráo trong đó Ý chí hùng tráng dừng hẳn sự phấn đấu liên tục của nó. Thực vậy, Nietzsche nói về ‘Quy hồi vĩnh cữu,’[95] một dạng luân hồi (saṃsāra) tương tục chưa đến niết-bàn.[96] Tuy nhiên, có lẽ đó chỉ là một phương diện nào đó của nỗ lực được thoả mãn trong niết-bàn. Như một bản kinh có cho chúng ta biết,[97] Pháp là điều ngay cả Đức Phật, sau sự giác ngộ của ngài, ‘được tôn xưng và kính trọng,’ hàm ý rằng, có lẽ, một phương diện xa hơn nữa của pháp dục (dhamna-chanda) chưa được hoàn toàn thoả mãn trong niết-bàn, hay thậm chí trong bát niết-bàn (parinirvāṇa). Nhưng tôi sẽ xem xét điều nầy trong Phần 11.

 Đúng như là không có Ý chí hùng tráng tách rời ngoài các ảnh hưởng–‘Ý chí vượt thắng một tác dụng tột đỉnh chỉ là ý chí thuộc tác dụng khác hay thuộc về người khác’[98]–tôi xin gợi ý rằng không có khát ái (taṇhā) trừu tượng ngoài các cảm xúc. Những gì chúng ta đề cập trong cả hai trường hợp đều là đặc điểm chung của các hiện hữu trên thế gian: ‘nhu cầu’ liên tục phấn đấu và đạt được một đối tượng và cứu cánh nào đó, dù những mục đích nầy là vật chất, chính trị, thuộc về tâm lý, hay tâm linh. Cả Ý chí hùng tráng và khát ái, do vậy tốt nhất, đều được hiểu như là những ẩn dụ–ẩn dụ thuộc ý chí luận (voluntaristic), để dùng ngôn ngữ của Nietzsche, là nỗ lực để làm cho cuộc đời ‘dễ hiểu.’

Nhưng không cũng như nó có thể dẫn đến sự nở hoa một nền văn minh. Điều làm nên sự khác nhau trong ngữ cảnh đạo Phật là vấn đề của cái thấy,[99] một dạng của ‘epistemic shift–cú nhảy nhận thức’. Điều kiện cho sự sinh khởi ‘cú nhảy nhận thức’ nầy là hình thái của khổ (dukkha): trở nên ý thức về sự thực là cuộc đời mà con người đang chủ đạo là không hài lòng vì chính nó không thoả mãn những nhu cầu sâu thẳm. Điều bất như ý nầy lúc đó trở nên điều kiện có những khía cạnh cho phép tự do để ‘thấy’ một cơ hội mới. Trong trường hợp của Nietzsche, nguyên do cú nhảy từ không tạo sinh sang tạo sinh là không rõ ràng lắm, ngoài thực tế là con người tiếp tục nỗ lực cho có nhiều quyền lực hơn, và một sự thành tựu cuối cùng sẽ phải cảm thấy là không được thoả mãn.

(Tiếp theo: ‘Tự hàng phục chính mìnhvà ‘Phát triển tâm linh–mind-development’)


[1] WP 1067. Xem thêm Stack (1983a), 265ff.

[2] S ii. 178ff.

[3] D-N 1. ‘4, iii. 8ff; A V. 89.

[4] tṛṣṇā 或 anunaya-saṃyojana; 貪愛

(1983a), 265. Tṛiṣṇā [tṛṣṇā] là dạng Sanskrit của taṇhā trong Pāli..

[5] (1957), 94–5.

[6] (1983a), 265.

[7] (1969) i . 312. Xem thêm i. 327 và 389.

[8] Xem Deussen (1906 và 1912).

[9] (1882), 211.

[10] *無有愛; e: thirst for non-existence

[11] * God of love (Greek Mythology)

[12] Rất thú vị, ông ta cũng dùng mô hình Erōs, và quả thực, thỉnh thoảng đã có đề cập gián tiếp, như trong TI ix. 23 và 24. Xem See Kaufmann (1974), ch. 8. Nietzsche còn chỉ định Symposium của Plato là Lieblingsdichtung của ông, hay là thi ca được ưa thích, vào thời điểm ông ta tốt nghiệp ở Schulpforta’ (Tejera (1987), 94).

[13] Symposium, 199e-20lb.

[14] Ibid. 205b.

[15] Ibid. 205d.

[16] Ibid. 205d.

[17] Ibid. 206b.

[18] Ibid. 204b.

[19] Dùng thuật ngữ nầy để bao hàm ‘sự đi ngược lên’ của Erōs, từ tình yêu cơ bản về cái đẹp thể xác đến tình yêu cái đẹp là tuyệt đối, hiện hữu riêng trong chính nó, độc nhất [và] vĩnh cữu’ (ibid. 210a—211b).

[20] A-N iii. 399-400

[21] A-N iii. 209-10

[22] M-N i. 259-60.

[23] Luận tạng.

[24] Tôi dùng thuật ngữ ‘lĩnh vực–ground’ ở đây trong ý nghĩa ‘điều kiện tiên quyết’ hay ‘nguyên lý cơ bản’ với nỗ lực mô tả tổng quát đời sống. Nếu con người nào dùng định nghĩa của Flew (1979) về siêu hình học như là ‘nỗ lực để mô tả hiện hữu hay thực tại như là một toàn thể,’ thì chúng ta có thể nói rằng khát ái (taṇhā) là một khái niệm siêu hình học trong ý nghĩa nầy.

[25] * Phần đầu trong Cựu Ứớc (Old Testament), nói về khởi nguyên sáng tạo thế giới.

[26]* Quan niệm Vũ trụ của Phật giáo có 4 thời kỳ hình thành nên thế giới: Thành, trụ hoại, không.

[27] * Không Phạm xứ 空 梵 處, Pāli: suñña Brahma-vimāna (kinh Trường A-hàm )–kinh Thế ký, Phẩm 12: Thế Bổn Duyên

*Quang âm thiên 光 音 天, cao nhất trong ba tầng trời Nhị thiền; Skt. Ābhāsvara, Pāli: Ābhassara, Huyền Trang dịch: Cực quang tịnh thiên 極 光 淨 天.

[28] Deva: Hán dịch: chư thiên.

[29] S-N V. 400.

[30] WP 688. Nói cách khác, Ý chí hùng tráng được hiểu bởi Nietzsche là một mô tả ngay cả là một dạng nguyên thuỷ nhất và cơ bản nhất của sự hiện hữu. Vì chúng ta phải tiến hoá từ những dạng nguyên thuỷ nầy, những xúc cảm hiện hành của chúng ta có thể được nói là bị ‘phát triển mở rộng.’ Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng bản chất sơ nguyên phải được hiểu trên nền tảng của phép loại suy của cõi người, không phải trên nền tảng các cõi giới khác.

[31] * Hán dịch: Tăng nhất A-hàm kinh 增一阿含經.

[32] * three kinds of attachment. Tam ái: Dục ái 欲愛, Sắc ái色愛, Vô sắc ái 無色愛(Theo Câu-xá luận). Theo Giải tập dị môn luận 解集異門論, quyển 4: Tam ái là: Dục ái 欲愛, Hữu ái 有愛, Vô hữu ái.

[33] Vô hữu ái vân hà? Đáp: Hân vô hữu giả, ư vô hữu trung, chư tham đẳng tham, chấp tạng phòng, đam trước ái nhiễm. hộ無有愛云何?答:欣無有者,於無有中,諸貪等貪,執藏防護,耽著愛染 .

[34] GM iii. 14.

[35] GM iii. 28.

[36] E: spiritual ignorance; p: avijjā. A-N v. 113ff.

[37] Buddhaghosa. Tác giả của Thanh tịnh đạo luận

[38] Vsm. 525. Thanh tịnh đạo luận. Lưu ý rằng khát ái (taṇhā) ở đây được cho là dẫn đến ‘số phận hạnh phúc’ cũng như là ‘đau khổ’ của con người.

[39] A-N v. 116.

[40] Vsm. 525.

[41] * E: voluntaristic metaphor.

[42] S-N ii. 114.

[43] S-N iii. 13; V. 414.

[44] *seeing and knowing things as they really are; p: yathā-bhūta-ñāṇa-dassana.

[45] Pruden (1988-90), 419ff.; Matilal (1985) 319ff.

[46] *wrong-view; p: micchā-diṭṭhi.

[47] Xem GM iii. a, và WP 481.

[48] * right-views’ (sammā-diṭṭhi)

[49] Theo cước chú của Rhys Davids trong bản dịch về Mahānidāna Sutta (D ii. ), Ngài Phật Minh (Buddhaghosa) trong luận giải của ngài về kinh nầy, quả thực đã có một phân biệt giữa vaṭṭa-mūlabhūtā purima-taṇhā; e: primary taṇhā, chính là căn gốc của luân hồi (saṃsāra) và samudācāra-taṇhā, hay là khát ái trong hành vi.’ Tuy nhiên, ý kiến của tôi là luôn luôn có một ảnh hưởng đặc biệt như ‘thèm khát-lust’ hay ‘ghét bỏ’ sinh khởi trong ý niệm nầy, không phải là khát ái (taṇhā), thậm chí trong dạng khát ái trong hành vi. Người ta có thể cho rằng ‘thèm khát-lust’là một dạng đặc biệt của khát ái trong hành vi, nhưng đây chỉ nói rằng khát ái trong hành vi luôn luôn là một tác dụng đặc biệt nào đó, rằng mọi tác dụng đều là biểu hiện của thực chất khát ái (taṇhā).

[50] A-N ii. 146: taha nissāya tahapajahati.

[51] Mrs Rhys Davids đã hướng sự chú ý vào đaọn kinh nầy như là một ví dụ quan trọng của phương pháp trong đó ý niệm ‘đoạn tận dục’ cần phải được nói rõ (1912: 222f.). Chanda có nghĩa là ‘thôi thúc, kích thích; ý hướng, ý định, ý chí; ham muốn, ước muốn, thích thú.’ (Từ điển PED.), và, như Mrs Rhys Davids cũng chỉ rõ, nó thường đồng nghĩa với khát ái (taṇhā).

*Tương Ưng Như Ý Túc, Phần 51, Chương VII Tương ưng bộ kinh HT.Minh Châu dịch.

[52] * iddhipāda, paths to power. Tư như ý túc: dục định ; tinh tấn định; tâm định; tư duy định.

[53] * chanda-samādhi ; p: concentration of will. Còn gọi là Dục như ý túc. Xem thêm trong Trung bộ Kinh, M-N i. 480 và ii. 173, vì chanda là ‘ý chí’ cần thiết để nỗ lực và thực chứng Bát-nhã (pañña). Như trong Từ điển PED trình bày về iddhi: không có riêng một từ nào trong Anh ngữ để chỉ cho iddhi:, vì ý niệm nầy không được biết đối với người Châu Âu. Nghĩa chính có thể là “khả năng, hiệu lực– potency.”

[54] *Tương Ưng Như Ý Túc, Phần 51, Chương VII HT.Minh Châu dịch

[55] Xem n. 4 trong bản dịch Tương ưng bộ kinh của Woodword và cước chú của Rhys Davids về khát ái (taṇhā) trong bản dịch năm 1910 về As, p. 244.

[56] *e: appropriate’[tajja] chanda: tu tập như ý túc câu hữu với dục định tinh cần hành ( Tương ưng bộ Kinh).

[57] Therī 14 (bhave chanda); Sn 866 (lokasmin chanda).

[58] M-N 1. 500; Sn 203 (kāye chanda).

[59] S-N ii. 151 (vyāpāda-chanda). E: chanda associated with malevolence.

[60] D-N 1.156, 246, etc. (kāma-chanda).

[61] M-N i. 119.

[62] S-N 1. 202. E: striving in the ways of the Dhamma. p: dhammapadesu chanda.

[63]A-N iii. 441. E: striving after skilful ways of being; p: kusala-dhammachanda.

[64] D-N ii.312–13.

[65] Vibhaṅga, 208. dhamma-chanda.

[66] Dục (chanda) mà đồng nghĩa với khát ái (taṇhā) có lẽ là do có người liên hệ trong câu: ‘Các pháp (dhamma; mental states) đều bắt nguồn từ trong dục (chanda)’ (A-N IV. 339 và V. 107), và ‘dục (chanda ) là căn gốc của khổ (dukkha)’ (S-N iv. 328), là những phát biểu trong đó người ta có thể thường mong tìm thấy thuật ngữ khát ái (taṇhā). Dục (chanda)’ trong các câu trên do vậy, sẽ tương ứng với điều kiện chung nhất hơn của hiện hữu phàm phu. Cũng vậy, có lẽ trong trình bày sớm nhất về pháp Duyên khởi (Sn 861—72), chính ái dục (chanda) sinh khởi do duyên vào cảm giác hài lòng’ (Trong đây được thay thế bằng thuật ngữ thông dụng hơn, là ‘Thọ vedanā; feeling-sensation,’ chứ không phải là khát ái (taṇhā), như trong các trường hợp thuộc mọi hệ thống khác.

[67] Trong D-N ii. 58, chúng ta thấy có thuật ngữ dhamma-taṇhā nhưng ở đây có nghĩa là ‘khát khao cảnh giới tâm’ vì đó là liệt kê 6 loại khát ái (taṇhā), mỗi loại liên quan với một đối tượng của 6 giác quan. Nó còn được liệt kê với ý nghĩa sau nầy trong cuốn đầu tiên của Luận tạng (Abhidhamma Pitaka), đó là Dhammasagaṇī, trong số các bất thiện pháp (akusala-dhammas) (Dhs. 1059).

[68] Tác phẩm thuộc dạng Dẫn luận (Guide-treatise), do Ñāṇamoli (Na-na-ma-lợi trưởng lão; 1905-1960) dịch từ tiếng Pāli với nhan đề The Guide. Đó không phải là luận giải nhiều về Kinh tạng, mà là một ‘hướng dẫn’ cho những nhà luận giải về cách làm sao giải thích kinh điển. Có lẽ được viết từ thế kỷ thứ 2 hoặc thứ nhất ttl.

[69] Bản dịch của tác giả, As A-N V. 276-7 cho chúng ta biết, thuật ngữ ghép ‘dẫn đến sự đoạn trừ–leads to diminishing; p: apacayagāmin’ được giải thích như là tu tập Thập thiện giới (ten precepts of skilful action), có nghĩa là tránh sát hại chúng sinh, không trộm cắp, không tà hạnh dâm dục, không nói dối, không nói lời hoa mỹ, không nói lời thô ác, không nói đôi chiều, không tham dục, không sân hận, không tà kiến ( tu tập chính kiến–right view; sammā-diṭṭhi).

[70] eager desire [pihā]

[71] M-N ill. 218. Xem thêm M-N 1. 303-4, bổ sung thêm rằng con người lúc đó hình thành một ước nguyện [pihā] giải thoát tối thượng (anuttara vimokha; e: unsurpassed emancipation).

[72] P: Ceto vimutti; e: liberation of mind.

[73] Netti, 8.

[74] Vsm. 525. Thiện thú hay Thiện đạo (sugatis; happy destinies) là chỉ cho đời sống tương lai ở trong các cõi trời (devaloka; heavenly worlds).

[75] P: brahmacariya ; e: pursuit of excellence

[76] Rāga có nghĩa là ‘yêu, cảm xúc, ham muốn mãnh liệt, ham thích, ham muốn, v.v… Kāma có nghĩa là ham muốn, ước ao, yêu (đặc biệt tình dục hoặc thể xác) cảm xúc, v.v…

[77] dhamma-rāga ; desire for the Dhamma. A-N IV. 423; V. 345. A-N V. 24, 27,90, 201; Sn 92.

[78] dhamma-kāma ; love of the Dhamma. A-N V. 24, 27,90, 201; Sn 92.

[79] akusala-mūla ; e: roots of unskilfulness.

[80] Xem A-N I. 93ff. và Itv. 98. Āmisa có nghĩa là: “1. Trước tiên là Thịt sống; từ đây thông dụng ý niệm ‘thô, chưa chuẩn bị, không phát triển.’ 2. Thịt, thuộc về thể xác (đối nghịch với tinh thần), từ đây, vật chất, thể xác; nói chung đối nghịch với pháp ‘dhamma’ (PED). Vì pháp ‘dhamma’ trong ngữ cảnh nầy rõ ràng là liên quan với đời sống tâm linh, đặc biệt tương tự với Erōs, là điều dĩ nhiên.

[81] M-N i. 162ff.

[82] Avijjā ; spiritual ignorance.

[83] Idappaccayā; conditionally connected.

[84] sammā-diṭṭhi; right view.

[85]* akusala-mūla; e: unskilful-roots. rāga, dosa, avijjā: tham, sân, vô minh.

[86] micchā-diṭṭhi; wrong view.

[87] sammā-diṭṭhi; right view.

[88] M.N iii. 72. Đây là ‘chánh kiến với nhiễm ô, lậu hoặc [taints; āsava], vốn dường như không có niết-bàn như là mục đích của nó, mà thay vì vậy, chỉ là phương tiện để tạo những công đức (puñña; merit) thiết yếu, hoặc là người nói, ‘duyên/điều kiện–conditions,’ cho sự phát sinh một cuộc đời hạnh phúc và tốt đẹp hơn trong tương lai, hoặc là trong đời nầy và đời sau. Vì ‘chánh kiến với nhiễm ô, lậu hoặc’ còn bao hàm sự công nhận rằng có ‘các bậc phạm hạnh trên thế gian, những bậc đã tự chứng ngộ với sự hiểu biết trực tiếp và tuyên bố có thế giới nầy và các thế giới khác,’ một quan niệm dĩ nhiên bao gồm cả những vị phạm hạnh ngoài đạo Phật, người ta có thể thấy rằng đây là quan niệm đạo Phật về xã hội lý tưởng, duy trì giáo lý nghiệp và tầm quan trọng của đời sống tâm linh. Những điều này sẽ là điều kiện lý tưởng cho những ai tìm cầu ‘chánh kiến vô lậu–right view without taints,’ xuất thế gian (lokuttara; transcenden tal), và Thánh hạnh (Ariyan), đạt cứu cánh niết-bàn.

[89] Great Chain of Being.

[90] * Atavistic: 隔代遺傳

[91] spiritual search; Ariyan quest.

[92] Nietzsche tạo nên nhiều điểm nầy, mà chúng ta xem là ‘thiện’ và ‘tinh thần’ có lẽ không sinh khởi nếu không có cái ‘xấu ác trước đó. Xem BGE 229 và tiểu luận chưa xuất bản của Nietzsche, GCS và HC trong quyển 2 của tác phẩm The Complete Works of Friedrich Nietzsche, ed. Levy (191). Tuy nhiên, như chúng ta thấy trước đây trong cước chú cho bài thơ của Hesiod viết, đây cũng là quan điểm của Kant.

[93] * Nguyên văn Angst: danh từ diễn tả nỗi bất an, lo âu, sợ hãi thường xuyên, tiêu biểu cho tình trạng của thế giới và con người.

[94] G: Seibstüberwindung; e: self-overcoming’

[95] * Eternal Recurrence. Một cách dịch khác là Phục diễn bất tận.

[96] Mặc dù có rất nhiều bài viết về Quy hồi vĩnh cữu (Eternal Recurrence), như của Magnus (1978) và nhiều người khác. Tôi có khuynh hướng muốn giải thích quan niệm Quy hồi vĩnh cữu của Nietzsche như là một tồn tại cấp bách theo lối tuyệt đối khẩn thiết của Kant. Đó là ‘sự thử thách’: nếu con người có thể khẳng định cuộc đời khi đối diện với toàn cảnh của cuộc sống con người đang thường xuyên lập lại–‘không phải cho một cuộc đời mới hoặc tốt đẹp hơn hay là cuộc sống tương tự… [mà chỉ] cái đồng nhất, tươtâm lý, không có tham muốn hoặc hy vọng nào để vượt qua một thế giới khác hay cuối cùng trở nên tuyệt diệt, rồi con người sẽ vượt qua thử thách nầy: họ xác định cuộc đời một cách vô điều kiện và từ đó, có một ứng viên thích hợp cho siêu nhân (Übermenschlichkeit). Cách hiểu mang tính tâm lý học hơn nầy được ủng hộ nhờ đọc những dòng của Nietzsche về Quy hồi vĩnh cữu (Eternal Recurrence) từ tác phẩm đã in của ông ta. Tuy nhiên, những tác phẩm chưa xuất bản của ông chỉ cho thấy rằng có lẽ ông ta thích nó cũng như một học thuyết vũ trụ luận, ‘mang tính khoa học nhất trong tất cả các giả thuyết có thể tồn tại.’(WP 55, xem thêm 1063). Ông còn liên kết quan niệm nầy với ý tưởng của ông về đang hiện hữu, không ý nghĩa hay mục đích, mà chắc chắn tuần hoàn trở lại không có chỗ tận cùng của cái không: “Phục diễn bất tận.” Đây là tột cùng nhất của chủ nghĩa hư vô: cái không bất tận (vô nghĩa–the “meaningless”).’ Điều nầy dường như chỉ cho nột hình thức của đạo Phật, rằng không phải là niết-bàn, mà chỉ là một trạng thái luân hồi (saṃsāra) mãi mãi–một dạng thức xa lạ đối với đạo Phật. Nietzsche còn thấy hình thái Châu Âu của đạo Phật nầy như là sản phẩm của ‘năng lực của cái biết và sức mạnh.’ Stack nhận xét rằng: ‘Có phải là một hình thái Châu Âu của đạo Phật? Hình thái nầy có từ một triết gia, nói chung, ông ta đã lên án đạo Phật như là một tín điều hư vô.’(1983a: 46): Về thảo luận thú vị nầy về Quy hồi vĩnh cữu (Eternal Recurrence), xin xem Stack (1983a), và Clark 1990), ch. 8.

[97] A-N ii. 20-1.

[98] BGE 117.

[99] *Dassana; seeing.

Hiển thị thêm
Back to top button